Phi hoàng dẫn

Phi hoàng dẫn – Chương 111 & 112

Thi thể của Hạ Huyên được khiêng ra khỏi Hàn phủ, nhà họ Hạ không tổ chức tang lễ mà chỉ âm thầm chôn cất, sự việc lạ lùng đó đã dấy lên những lời xì xào bàn tán khắp quân doanh.

Kỳ lạ hơn là từ hôm ấy trở đi, Xích Hoàng chẳng còn xuất hiện, thậm chí nàng cũng không đến doanh trại, mọi quân vụ đều được giải quyết tại phủ, tình trạng này chỉ xảy ra khi tướng quân bị thương, khiến trong quân đội nảy sinh nhiều lời đồn đoán.

Ngũ Thôi thân là trưởng Cận vệ doanh, chạy qua lại giữa quân doanh và Hàn phủ nên đương nhiên biết rõ nội tình, có điều hắn tuyệt đối không thể hé lộ dù chỉ nửa lời, cũng may Thạch Đầu đã rời khỏi Sa Châu, chứ không chẳng biết phải ứng phó với loạt câu hỏi dồn dập ra sao.

Mà đau đầu nhất là khi hắn gặp phải những người quen quá nhiệt tình như Tháp Lan ngoài phố, cứ liên tục gặng hỏi.

Ngũ Thôi đáp chiếu lệ, “Tướng quân vẫn khỏe, cô đừng đoán mò.”

Đã lâu lắm rồi Tháp Lan không gặp Hàn Minh Tranh nên nào chịu để hắn đi, “Tôi không tin, nghe nói cô ấy còn không đến doanh trại, chắc chắn là đã có chuyện. Anh nói thật đi, nếu không tôi sẽ đến phủ Tiết độ sứ tìm cô ấy!”

Người phụ nữ này khá dữ dằn, Ngũ Thôi không dám đắc tội, lạnh mặt nói, “Cô đi cũng vô ích, tướng quân không gặp ai hết.”

Tháp Lan hỏi mãi không không được, tức giận dậm chân. Phố xá người qua lại tấp nập, Ngũ Thôi thấy chủ tiệm bán đậu rang bên cạnh đang lơ đãng nhìn sang, càng không muốn nói nhiều, “Cô bớt lo chuyện bao đồng đi, tướng quân có việc trọng đại, không có thời gian để ý đến cô đâu.”

Dứt lời, hắn lập tức co giò chuồn thẳng, bỏ lại Tháp Lan tức tối chửi bới.

Một người đàn ông từ trong quán rượu bước ra, vòng tay ôm Tháp Lan an ủi, gương mặt tuấn tú cũng hiện vẻ lo lắng.

Ông chủ tiệm bán đậu rang trở vào trong, leo lên gác xép trên tầng hai, lấy bút viết một bức thư. Chẳng bao lâu sau, người hầu dắt ngựa rời đi từ sân sau, cùng lúc cầm theo lá thư kia.

Bức thư qua tay nhiều người, sau mấy ngày cuối cùng cũng đến được tay Phòng ngự sứ của thành Thiên Đức.

Lục Cửu lang thấy sáp niêm phong vẫn nguyên vẹn, hắn mở thư ra, dùng thuốc nước làm hiện nét chữ.

Thạch Đầu không biết trên thư viết gì, chỉ thấy sắc mặt hắn chợt xấu đi, lo lắng hỏi, “Tướng quân gặp chuyện hả?”

Lục Cửu lang đốt lá thư, giữa ấn đường hiện lên vẻ bực bội, hắn trầm ngâm không nói.

Bỗng bên ngoài có tiếng động đưa tới, Lục Cửu lang cầm lấy thanh loan đao cùng túi tên, vừa bước ra ngoài thì sắc mặt cũng thay đổi, dáng điệu ngạo mạn pha chút khinh suất, “Hiếm lắm mới thấy Ngụy đại nhân mời ta đi săn, chi bằng thi thố một phen?”

Ngụy Hoằng cười ha hả, làm như không có chuyện gì, “Ta đâu phải đối thủ của Lục đại nhân, chỉ định hoạt động gân cốt thôi.”

Lục Cửu lang quen xuất hành gọn nhẹ ít người, hắn nhìn một vòng rồi buông lời, “Sao phải dẫn theo đông đúc thế này, hù dã thú chạy hết thì còn gì là vui.”

Thạch Ngu hậu cười giả lả, hạ giọng đáp, “Hai vị đại nhân đều có thân phận tôn quý, tất nhiên phải đảm bảo an toàn rồi.”

Lục Cửu lang chẳng buồn để ý, lập tức giảm một nửa số người đi cùng, Thạch Ngu hậu xuôi theo nhưng ngầm ra hiệu cho thuộc hạ, thuộc hạ hiểu ý, đợi đoàn người xuất phát được một lúc mới dẫn binh lính bám đuôi.

Bầu trời trong xanh, đồng hoang mênh mông nhưng lại có cảm giác ngột ngạt vô hình, Ngụy Hoằng và Thạch Ngu hậu âm thầm trao đổi ánh mắt.

Ngụy Hoằng lớn tiếng nói, “Lục đại nhân nói chí phải, người đông quá, dã thú chẳng thấy đâu, chi bằng ta và ngài chia ra hai hướng, nửa ngày sau xem ai săn được nhiều hơn.”

Lục Cửu lang thuận miệng tán đồng, Ngụy Hoằng dẫn theo một nửa người hùng hổ rời đi, để lại Thạch Ngu hậu theo sau. Gã khẽ ho vài tiếng, bọn thuộc hạ lặng lẽ tụ lại, không khí trở nên căng thẳng.

Lục Cửu lang như không nhận ra điều bất thường, thấy phía trước có dã thú, hứng thú nổi lên, hắn thúc ngựa lao đi, thân binh của hắn cũng rất giỏi cưỡi ngựa, nhanh chóng đuổi theo.

Thạch Ngu hậu hớt hải gọi mấy tiếng nhưng đối phương đã đi xa, gã đành dẫn người chạy theo, sự việc diễn ra quá nhanh đến mức gã không kịp thông báo cho binh mã phía sau.

Hai bên tiếp tục phi nước đại, Thạch Ngu hậu không giỏi cưỡi ngựa, mệt mỏi thở hồng hộc. Không biết đã rượt đuổi bao lâu, đưa mắt nhìn quanh chỉ toàn sa mạc hoang vu, cồn cát nối liền, không có lấy một cột khói bếp, gã mồ hôi mồ kê nhễ nhại, ôm một bụng tức giận, suýt buột miệng chửi thề.

Lục Cửu lang phi ngựa lên đỉnh cồn cát, cuối cùng cũng dừng lại nhìn về phía sau.

Thạch Ngu hậu mừng rơn, sợ hắn lại chạy mất, lập tức hô hào thuộc hạ vượt qua cồn cát, đi đường tắt tiến tới, thế nhưng khi chỉ cách còn vài chục bước thì ngựa bỗng hoảng hốt hí lên, móng giẫm không vững, hóa ra bọn họ đã lạc vào vùng đất lún, đám đông binh lính lập tức hốt hoảng.

Thạch Ngu hậu là người đầu tiên rơi vào bãi cát lún, gã chưa từng gặp địa hình như thế nên không hiểu được sự nguy hiểm của nó, chỉ thấy con ngựa của gã vùng vẫy dữ dội, hất gã xuống cát, gã toan đứng dậy, nhưng càng dùng sức kéo thì chân càng lún sâu hơn, hoàn toàn mất kiểm soát.

Đoàn người của gã mải miết tăng tốc nên hầu hết đã rơi vào bãi cát lún, Thạch Ngu hậu hoảng loạn, vội vàng ngước mắt nhìn lên trên.

Lục Cửu lang không chút ngạc nhiên, nở nụ cười để lộ hàm răng trắng, “Thạch Ngu hậu là người Trường An, không quen thuộc với hoang mạc Tây Bắc, gặp phải chút sai lầm cũng là điều dễ hiểu.”

Thạch Ngu hậu thấy ngựa càng lúc càng lún sâu, các binh sĩ bên cạnh đã bị cát vùi tới tận ngực, ba hồn bảy vía bay mất, gã hét lớn, “Lục đại nhân! Cứu mạng!”

Lục Cửu lang vẫn vô cùng thư thả, nở nụ cười nham hiểm, “Vùng cát lún Tây Bắc này, một khi đã lún thì bao nhiêu binh mã cũng có thể nuốt chửng, không để lại bất cứ dấu vết nào, tiện giải quyết hơn nhiều so với ở Trường An.”

Thạch Ngu hậu quá khiếp đảm, trừng mắt nhìn hắn chòng chọc, “Ngươi dám! Ta đường đường là Ngu hậu, là mệnh quan triều đình! Nếu gặp bất trắc, Điện hạ sẽ không tha cho ngươi!”

Toán binh phía sau thấy có dấu hiệu nguy hiểm nên kịp thời ghìm cương, may mắn không bị rơi vào vùng cát lún. Nhận thấy tình hình không ổn, bọn chúng định quay đầu bỏ chạy nhưng đã bị Thạch Đầu dẫn thân binh chặn lại.

Lục Cửu lang đứng trên cồn cát, tựa như con sói đầu đàn nhìn bầy sói bao vây tứ phía, tiêu diệt hết tàn quân của Thạch Ngu hậu.

Cát lún mịn màng như dòng suối liên tục chảy xiết, những hạt cát mềm mại mà cũng vô cùng tàn nhẫn từ từ nuốt chửng tất thảy.

***

Phòng ngự sứ thành Thiên Đức mất tích trong lúc săn bắn ở hoang mạc, tìm khắp nơi vẫn chẳng thấy tung tích, khả năng cao đã gặp nạn, tin tức này truyền đến Trường An khiến triều đình bàng hoàng.

Lý Duệ đang tìm cách điều Lục Cửu lang trở về trọng dụng, vừa hay tin thì vô cùng phẫn nộ, lập tức chỉ ra chắc chắn có uẩn khúc đằng sau, cần phải điều tra rõ ràng, mũi nhọn nhắm thẳng vào Lý Phù, tất nhiên phe phái của Đại Hoàng tử cũng nhanh chóng phản biện. Bọn họ chỉ trích Lục Cửu lang xưa nay hành xử tùy tiện, đi săn vốn không phải công vụ, chỉ vì vui chơi mà khiến cho đoàn người Thạch Ngu đi theo bảo vệ phải gặp nạn, sao có thể đổ hết trách nhiệm lên đầu người khác? Hai phe tranh cãi kịch liệt trên triều, mãi cho đến khi quân tình khẩn cấp từ Hà Tây truyền đến.

Quốc vương Thổ Phồn đã phái mười vạn quân xâm lược Tây Châu nhằm trả thù cho việc đánh mất Lương Châu.

Tây Châu là châu xa nhất ở Hà Tây, một khi rơi vào tay kẻ địch thì tiếp theo sẽ đến lượt Y Châu, tình hình hết sức nghiêm trọng. Nhưng triều đình đã mệt mỏi sau nhiều năm chinh chiến, không đủ sức lo liệu, chỉ có thể hạ chiếu cho Tiết độ sứ Hà Tây, để Hàn gia tự dẫn quân đẩy lùi.

Sau buổi chầu, Thẩm Minh rời khỏi hoàng cung, giữa đường gặp xe của Hàn Chiêu Văn bị nứt bánh, nhân tiện đưa y về, cả hai không tránh khỏi bàn bạc về chuyện này.

Thẩm Minh luôn ở bên cạnh Thiên tử, ngày ngày đều nghe tấu sớ từ khắp nơi đổ về, hiểu rõ nỗi khó khăn của triều đình, “Quân man Nam Chiếu đã xâm lược An Nam, Bệ hạ lệnh cho các châu quận lân cận phát binh cứu viện; Đô tướng Tuyên Châu lại gây loạn, đuổi đi Quan sát sứ Tuyên Châu; còn Lĩnh Nam dù đã giết được Mao Diên nhưng tới nay vẫn chưa bình yên, loạn lạc liêm miên, thực sự không thể lo liệu nổi cho Hà Tây.”

Hàn Chiêu Văn chỉ biết thở dài, “Ta cũng hiểu mà, triều đình có cái khó của triều đình.”

Thẩm Minh khéo léo nói, “Quân đội Hà Tây mới trải qua trận chiến cách đây vài tháng, dù lần này không thể phát binh, Bệ hạ chắc chắn cũng sẽ thông cảm.”

Hàn Chiêu Văn lắc đầu, “Hàn gia được lòng dân chúng là nhờ đã bảo vệ bọn họ, nếu để mặc quân Phồn chiếm đoạt Tây Châu thì làm sao có thể thu phục các tộc, làm sao xứng đáng làm Tiết độ sứ một phương.”

Thẩm Minh im lặng, y cũng biết nếu nhà họ Hàn muốn tập hợp lòng dân thì không thể bỏ mặc bất cứ một châu nào. Trong thời kỳ mạnh mẽ bọn họ ắt có thể làm được, nhưng hiện giờ năm quân không đồng lòng, người Phồn lại liên tục quấy rối, triều đình không thể viện trợ, một khi thua trận tình hình sẽ vô cùng tệ.

Dù bản thân Hàn Chiêu Văn cũng đang lo lắng nhưng lại quay sang an ủi Thẩm Minh, “Xá đệ nhà ta tinh thông hành quân đánh trận, dẫu tình thế bất lợi đến đâu, chắc chắn vẫn sẽ đánh đuổi được quân Phồn.”

Đột nhiên bên ngoài xe vang lên tiếng động ồn ào, có một cô gái xông tới khóc lóc, “Thẩm đại nhân, xin cứu mạng nương tử nhà tôi!”

Thẩm Minh kinh ngạc vén rèm, trông thấy thị nữ của Sở Phiên Phiên.

Thì ra từ sau khi Sở Phiên Phiên có được lời hứa hẹn từ Thẩm Minh, nàng vui mừng chờ đợi, ngờ đâu hôm qua lại nghe phải tin dữ, không khác nào sét đánh ngang tai.

Phủ Đại hoàng tử muốn nạp thêm mỹ nhân, quan viên ở Giáo Phường Ti đã chọn Sở Phiên Phiên, chẳng bao lâu nữa sẽ đưa nàng vào phủ.

Lòng Thẩm Minh trầm xuống, ca kỹ muốn thoát tịch là chuyện không dễ dàng, mà danh tiếng của tướng phủ cũng cần giữ gìn cẩn thận. Chàng phải vòng vèo nhiều đường, nhờ cậy người khác giúp đỡ, cứ tưởng suôn sẻ đến nơi thì giữa chừng lại xảy ra chuyện này. Giáo Phường Ti làm thế là có ý định lấy lòng, Lý Phù chưa chắc đã cảm kích, nếu chàng mở lời thì có khi đối phương sẽ vui lòng ban ân, nhưng nếu làm vậy tướng phủ sẽ dính dáng đến phủ Đại Hoàng tử, ắt hẳn phụ thân sẽ không đồng ý.

Xe ngựa dừng tại một góc vắng vẻ, Thẩm Minh trầm ngâm ngồi trong xe, thị nữ không dám thúc giục, chỉ quỳ bên ngoài khóc lóc khẩn cầu.

Hàn Chiêu Văn nghe xong, biết được lợi hại trong sự việc lần này, cũng hiểu Thẩm Minh rất khó quyết định, thế là y bảo người hầu đưa thị nữ về, sau đó kín đáo trao đổi với Thẩm Minh một hồi.

***

Sâu trong phủ đệ của Lý Phù có một căn mật thất, ngay cả Hoàng tử phi cũng không được phép đặt chân đến. Mỗi khi tâm trạng cực xấu, hắn sẽ vào đó nghỉ ngơi ít hôm, đến lúc ra ngoài, tâm tình đã bình ổn, trên tay cầm tràng hạt Phật, miệng cười hiền từ.

Mật thất nằm sâu dưới lòng đất, kết nối với nhiều gian phòng sang trọng được bài trí vô cùng lộng lẫy: bàn ghế khảm vàng nạm ngọc, kệ sách sáng bừng nhờ minh châu chiếu rọi, sàn nhà phủ thảm lông mềm mại từ Ba Tư, hương liệu dùng để đốt còn quý giá hơn vàng. Bên ngoài có một đám nô bộc im lặng đứng hầu, chờ lệnh ban xuống.

Từ gian phòng bên trong vang lên tiếng thét thảm thiết, nhưng với kết cấu của mật thất thì không một âm thanh nào có thể vọng lên mặt đất.

Cuối cùng cửa phòng cũng bật mở, Lý Phù ung dung bước ra, ném cây roi có gai đi, thị nữ quỳ xuống, dâng chậu vàng để hắn rửa tay.

Một thái giám quỳ bẩm, “Bẩm điện hạ, Nam Khúc báo tin Sở Phiên Phiên trong lúc du ngoạn đã không may rơi xuống vực, người đã bỏ mạng.”

Lý Phù dừng tay, cầm khăn lau sạch, “Có tìm thấy xác không?”

Thái giám cúi đầu thấp giọng, “Núi cao rừng rậm, không tìm thấy ạ.”

Trên mặt Lý Phù không một biểu cảm, giọng lạnh lẽo thâm độc, “Được lắm Thẩm Minh, không muốn làm kẻ phụ tình cũng không thèm cầu xin ta một lời, dám giở trò kim thiền thoát xác.”

Thái giám run rẩy, “Đã cho người giám sát rồi ạ, bất cứ khi nào Thẩm tướng công tử ra ngoài đều sẽ được báo cáo.”

Lý Phù đá mạnh một phát khiến thái giám lăn ra đất, “Thứ ăn hại! Với tính cẩn thận của Thẩm Minh, chắc chắn hắn đã đưa người đi xa rồi, còn giám sát cái gì!”

Thẩm Đồng thân là tể tướng, có ảnh hưởng rất lớn trong triều, con trai Thẩm Minh của ông soạn thảo chiếu chỉ cho Thiên tử, nắm rõ mọi sự vụ quân cơ. Lý Phù đã muốn thu phục Thẩm Minh từ lâu, biết y đang tìm cách giúp Sở Phiên Phiên thoát thân nên tính nhân cơ hội này để khống chế, chỉ chờ Thẩm Minh đến cầu xin.

Dù Thẩm Minh lòng dạ sắt đá, nhẫn tâm không cứu, Lý Phù cũng có thể sắp đặt một màn “Dương Tố tặng thiếp”(*), buộc đối phương phải nhận ân tình, và một khi đã lôi kéo được Thẩm Minh, Thẩm tướng sẽ không thể đứng ngoài. Song không ngờ Thẩm Minh lại đi nước cờ này, khiến mọi toan tính của hắn đổ sông đổ biển.

(*) Dương Tố là Tể tướng đời Tuỳ, từng ba lần đưa thê thiếp cơ kỹ cho người ta, từ đó mới có các điển cố “gương vỡ lại lành”, “Hồng Phất dạ bôn” và “giúp người thành đạt”.

Lý Phù giận tím người nhưng tạm thời chưa thể động đến Thẩm phủ, hắn cười lạnh một tiếng, mở chiếc tủ vàng, chọn một cây roi mới, “Thôi, món nợ này để sau hẵng tính, đưa kẻ trong phòng đi chôn rồi gọi người mới lại đây.”

_____________

Quân tình ở Hà Tây nóng như lửa đốt, chưa kịp đợi chỉ dụ từ Thiên tử, Hàn Bình Sách đã bắt đầu điểm binh. Lần này bốn quân xuất chinh, duy chỉ có Nhuệ Kim quân của nhà họ Bùi án binh bất động, từ chối lệnh điều động của Tiết độ sứ.

Khi đại quân tiến về Tây Châu nghênh chiến, các đoàn thương buôn vẫn tiếp tục qua lại, cát bụi bốc mù mịt trên những cung đường dài, tiếng lục lạc và vó ngựa dồn dập thay nhau vang lên.

Gần lúc chạng vạng, một đoàn thương lớn đầy phong trần tiến vào thành Túc Châu.

Túc Châu nằm ở trung bộ Hà Tây, thuộc biên giới phía Tây của vùng Ung Châu cổ đại, thời Chiến Quốc là đất Tây Nhung. Phía Đông giáp Cam Châu, phía Nam là Tuyết Lĩnh thuộc dãy Kỳ Liên, đi về phía Tây có thể đến Sa Châu. Trong thành thịnh hành Phật giáo, chùa chiền lớn nhỏ mọc san sát, tháp bảo trang nghiêm, tăng tục sống chung, có danh xưng “nửa thành thương nhân, nửa thành chùa miếu”.

Người đứng đầu đoàn thương buôn là một cô gái, cô có dung mạo kiều diễm, tính cách năng động, hai má rám nắng dính bụi đang ra lệnh cho người dưới, “Đến chùa giao hàng trước, chuẩn bị các vật phẩm lễ biếu, đồng thời cử người đi đến dịch trạm thu xếp chỗ ăn nghỉ. Những kẻ không còn hữu dụng thì trả tiền đuổi đi, không cần giữ lại.”

Đoàn thương buôn dài dằng dặc đi qua phố xá nhộn nhịp, tiến về phía các ngôi chùa lớn.

Cũng như phủ Tiết độ sứ của nhà họ Hàn được dân chúng Sa Châu kính ngưỡng, thì người có địa vị cao nhất Túc Châu chính là Đô tăng thống Quan Chân đại sư, ngụ tại chùa Pháp Tràng thuộc trung tâm của Hậu Thổ quân, được hàng vạn tăng chúng yêu quý.

Chùa Pháp Tràng có diện tích rất lớn, chia thành ba mươi tám viện với hơn một nghìn một trăm ba mươi gian điện thờ. Tăng nhân trong chùa đông đúc như mây, pháp đường đẹp đẽ nghiêm trang, hồ nước phản chiếu giới đàn(*), bên ngoài lầu ba gác là hành lang nối tiếp, điện Phật xếp chồng lên nhau, tháp Phật đứng sừng sững, từ sáng đến tối luôn có tiếng tụng kinh cùng tiếng hô của các võ tăng luyện tập, chùa vừa là nơi thờ phụng cũng vừa là doanh trại quân sự.

(*) Giới đàn: nơi chịu hình phạt của tăng lữ.

Xung quanh chùa Pháp Tràng còn có rất nhiều ngôi chùa khác, tăng đồ đông không kể xiết. Vào thời bình bọn họ tiếp đón tín đồ, còn lúc chiến tranh sẽ cử ra tăng binh, do đệ tử của Đô tăng thống chỉ huy, nghe hiệu lệnh xung phong trận mạc, dũng mãnh kiên cường, khiến danh tiếng của Hậu Thổ quân lan xa.

Những ngôi chùa này không chỉ giữ nhiệm vụ phòng thủ mà còn sở hữu nhiều tài sản, vô cùng giàu có, chính là khách hàng quan trọng bậc nhất của các đoàn thương buôn.

Hàng hóa từ Tây Vực được giao đến chùa, tăng nhân sẽ trực tiếp kiểm kê, đàm phán với quản gia.

Cô gái nọ không nói gì, chỉ đứng bên cạnh lắng nghe, đợi mọi việc xong xuôi cô mới tiện tay dâng lên một chiếc hộp nhỏ, “Trầm hương từ An Tức, rất hợp với nghi lễ tụng kinh của sư thầy.”

Vị tăng nhân mỉm cười, chắp tay cúi đầu trước cô gái, “Đa tạ An tiểu thư, hàng hóa lần nào cũng độc đáo mới mẻ, xin gửi lời thăm hỏi đến An phu nhân.”

Cô gái ấy không phải ai khác mà chính là An Anh. Chuyến kinh thương đầu tiên đã khiến cô sợ hãi suýt từ bỏ, nhưng giờ đây cô đã có thể thành thạo dẫn dắt thương đội băng xuyên các nước, trở nên dạn dĩ chín chắn hơn, không còn bỡ ngỡ ngại ngùng như năm nào.

Sau khi đi qua nhiều ngôi chùa, hầu hết hàng hóa đã được bán sạch, An Anh bước ra, leo lên lưng lạc đà hướng về phía dịch trạm.

Kinh doanh buôn bán không phải việc dễ dàng, khởi đầu vô cùng khó khăn, cô từng bị lừa nhiều vố, khóc lóc nhiều lần. Nhưng dần dà, cô bắt đầu yêu thích sự mới mẻ và tự do khi phiêu bạt ở các nước xa lạ, hơn hẳn cuộc sống tẻ nhạt chốn khuê phòng.

Chỉ là một chuyến buôn dài thường vô cùng vất vả, An Anh mệt mỏi rã rời, đang mong sớm đến dịch trạm nghỉ ngơi, bất thình lình ánh mắt chững lại.

Trên con phố tấp nập ngựa xe, một đoàn kỵ binh khoảng chừng trăm người phi ngựa lao đến, tất cả bọn họ đều khoẻ mạnh cường tráng, người ở giữa có thân hình cao lớn, che kín nửa mặt, chỉ để lộ đôi mắt hẹp, lướt qua đoàn thương buôn của nhà họ An.

An Anh giật mình, nhìn theo bóng dáng nhóm người kia đi xa, cho đến khi khuất hẳn trong dòng người tấp nập trên phố.

Quản gia ngạc nhiên hỏi han, An Anh không thể nói rõ, chỉ lắc đầu, trong lòng đầy nghi hoặc.

Người ấy đã không còn như xưa, địa vị tối cao, gần như trở thành truyền kỳ, sao có thể xuất hiện ở đây được? Có lẽ cô đã nhìn nhầm rồi.

***

Nhưng An Anh không nhìn hề nhầm, người đó chính là vị Phòng ngự sứ mất tích trong trận bão cát ở thành Thiên Đức, khiến hai vị Hoàng tử suýt xé mặt nhau trên Kim điện. Hắn lặng lẽ mang theo thuộc hạ, giả làm thương đội lẻn vào Hà Tây.

Lục Cửu lang vượt qua bao khó khăn mới đến được đây, định bụng sẽ nghỉ ngơi tại Túc Châu trước khi vào Sa Châu. Dịch trạm trong thành toàn là các thương nhân đến từ khắp nơi, tiếp tế đầy đủ mà cũng không bị chú ý quá nhiều, là địa điểm ẩn mình tốt hơn nhà trọ, nghiễm nhiên trở thành lựa chọn hàng đầu của Lục Cửu lang.

Bây giờ hắn không tiện lộ mặt, vừa bước chân vào phòng thì không ra ngoài nữa. Thạch Đầu đi gọi đồ ăn, hai người vừa đói vừa mệt, hầu bàn vừa dọn món lên là cả hai cùng ngồi ăn ngấu nghiến.

Cách đây không lâu Thạch Đầu mới đi qua con đường này, nói chuyện vu vơ, “Dịch trạm vẫn đông đúc nhưng quán xá trên phố ít hơn rồi, không còn nhộn nhịp như trước.”

Lục Cửu lang ngẫm nghĩ rồi hiểu ra, “Hậu Thổ quân đã xuất chinh, trong thành mất đi mấy vạn người, tất nhiên không thể như trước.”

Thạch Đầu vỡ lẽ, “Phải rồi, bọn họ theo Tiểu Hàn đại nhân đến Tây Châu, đúng là ông trời giúp Cửu lang.”

Lục Cửu lang bình thản nói, “Hắn có ở đây hay không thì ta vẫn phải gặp người. Biết thế ta đã để ngươi ở lại Sa Châu, túm lấy Ngũ Thôi tra khảo bằng được, kiểu gì cũng biết vài chuyện.”

Dịp đấy Thạch Đầu ăn nhậu mấy ngày rồi rời đi luôn, nào biết sự việc lại thành ra như thế, hắn an ủi, “Kỷ Viễn cũng nói Ngũ Thôi thường xuyên ra vào Hàn gia còn gì, chắc chắn là để thông báo tình hình trong doanh trại. Tướng quân vẫn nắm quyền, có lẽ không có vấn đề.”

Lục Cửu lang nhíu mày không đáp, chờ lúc ăn xong, nước nóng cũng được đưa đến, hai người lần lượt tắm rửa.

Lục Cửu lang tắm xong, Thạch Đầu nhảy vào thùng tắm, đang kỳ cọ dở thì bên ngoài đột nhiên ồn ào, thương nhân í ới inh ỏi, bước chân rối ren, đám đông hoảng loạn cứ như gặp phải binh mã.

Lục Cửu lang lấy khăn che mặt, ra ngoài thăm dò tình hình.

Thạch Đầu vội vàng nhảy ra khỏi thùng, hấp tấp mặc quần áo, nhưng càng vội càng cuống khiến hắn cài nhầm cúc áo.

Cửa kêu cái *cạch*, Lục Cửu lang đã quay lại, Thạch Đầu hỏi, “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”

Lục Cửu lang lạnh lùng nói, “Ngoài thành phát hiện quân Phồn.”

Thạch Đầu kinh hãi, “Quân Phồn đang xâm chiếm Tây Châu cơ mà, sao lại đến đây?”

Lục Cửu lang đã căn dặn thuộc hạ không được ra ngoài, ở lại phòng cảnh giác, bản thân hắn cũng đã có phỏng đoán, “Chỉ e là chiêu giương đông kích tây, cố tình dụ đại quân ra ngoài, nhân lúc Túc Châu trống trải mà tấn công.”

Nghe đồn cánh quân xâm chiếm Tây Châu lên tới mười mấy vạn, Nhuệ Kim quân không xuất binh, ba nhà còn lại phải huy động toàn bộ mới đủ quân lực, thử hỏi bây giờ Túc Châu còn bao nhiêu quân phòng thủ?

Thạch Đầu hoảng hốt, “Vậy chẳng phải nơi này rất nguy hiểm sao?”

Lục Cửu lang trầm ngâm, đoạn nói, “Chủ lực của người Phồn vẫn ở Tây Châu, bằng không còn lâu Hàn gia mới mắc mưu. Quân đến tập kích Túc Châu chắc chỉ có mấy vạn, chỉ cần cầu viện Cam Châu, bốn vạn Nhuệ Kim quân đến kịp thì Túc Châu sẽ có thể phòng thủ.”

Thạch Đầu thở phào, “Đúng thế, hơn nữa còn có Sa Châu, Hàn gia cũng sẽ tới cứu viện.”

Lục Cửu lang im lặng một lúc lâu mới nói, “Quân của Hàn gia đã đến Tây Châu, muốn ứng cứu cũng chẳng còn bao nhiêu, chỉ có thể trông chờ Nhuệ Kim quân đến kịp, như thế sau trận chiến này, Hậu Thổ quân sẽ chịu ân tình của Bùi gia, điều đó không tốt cho Hàn gia. Hiện tại cổng thành đã đóng, chúng ta tiến thoái lưỡng nan, chỉ có thể theo dõi tình hình, đêm nay bảo mọi người thay phiên gác đêm, chớ có ngủ say.”

Thạch Đầu không nhịn được than thở, “Sắp gặp tướng quân rồi mà lại đụng độ quân Phồn tấn công, vận số thật đen đủi.”

***

Đối với Thạch Đầu đấy là vận xui, nhưng đối với nhà họ Bùi thì đó lại là một cơ hội bất ngờ.

Phủ đệ Bùi thị nguy nga tráng lệ, cửa Ô Đầu(*) uy nghiêm phi phàm, ban ngày mái ngói như mây vờn, tối đến hoa đèn tựa mưa rơi, gia tộc đông đúc, chiếm trọn một phường đất.

(*) Cửa Ô Đầu là công trình phản ánh cấp bậc trong triều đại nhà Đường và nhà Tống. Chỉ những quan chức từ ngũ phẩm trở lên (nhà Đường) hoặc lục phẩm trở lên (nhà Tống) mới được phép xây dựng cửa Ô Đầu.

Anh em Bùi thị mỗi người có một phủ riêng, thường ngày bận rộn với công việc, hiếm khi tề tựu đông đủ trừ các dịp lễ Tết, nhưng hôm nay lại là ngoại lệ.

Huynh trưởng Bùi An Dân lên tiếng trước, vào thẳng vấn đề, “Túc Châu báo tin bốn vạn quân Phồn đã tấn công, quân phòng thủ chỉ có sáu nghìn, tình hình nguy cấp, cầu cứu Nhuệ Kim quân chi viện.”

Tam gia Bùi Hưng Trị cười khẩy, “May mà trước đó chúng ta đã từ chối xuất quân sang Tây Châu, đợt tấn công này của quân Phồn lại có lợi cho chúng ta. Chỉ cần xuất quân hỗ trợ, sau này Hậu Thổ quân sẽ không thể thiên vị nhà họ Hàn mãi nữa.”

Bùi An Dân tiếp lời, “Ta đã ra lệnh tập hợp toàn quân, nửa ngày sau có thể xuất phát, nhưng Tứ đệ có ý kiến khác nên ta mới triệu tập mọi người để bàn bạc.”

Bùi Quang Du hấp háy mắt, chậm rãi nói, “Theo đệ thấy chúng ta không cần gấp gáp chi viện, càng chậm trễ càng tốt. Nếu tình hình chưa đủ khẩn cấp mà chúng ta xuất quân quá sớm, quân Phồn rút lui ngay thì Quan Chân có thể cảm kích chúng ta được bao nhiêu? Ông ta luôn xem Hàn gia là khuôn mẫu, nếu lần này Túc Châu thất thủ, không phải sẽ trách tiểu Hàn đại nhân đã điều động tăng binh vô tội vạ, dẫn đến tai họa sao?”

Bùi Hưng Trị sửng sốt, lập tức cân nhắc.

Bùi Quang Du chẳng chỉ nghĩ đến việc liên minh mà còn muốn nhân cơ hội này áp chế nhà họ Hàn, “Đệ thấy cứ từ từ, cứ để quân Phồn quấy phá Túc Châu, đẩy toàn thành vào cảnh nguy nan, dân chúng căm ghét Hàn gia đến tột độ, đó mới là lúc Nhuệ Kim quân xuất hiện, kịp thời chi viện.”

Bùi An Dân đã gần như bị thuyết phục, nhưng vì sự việc trọng đại nên vẫn muốn nghe ý kiến của Bùi Hựu Tĩnh.

Song, Bùi Hựu Tĩnh lại không biểu lộ cảm xúc, chỉ lặng thinh ngồi đó.

Bùi Hưng Trị cũng bị lung lay, “Nói rất đúng! Hiện giờ người ta trách Bùi gia không chịu xuất quân, nhưng sau này còn ai dám nói ra nói vào nữa không? Nếu không từ chối tuân lệnh của Hàn gia thì lấy đâu ra binh lực cứu trợ Túc Châu.”

Bùi Quang Du ngẩng đầu, kiêu ngạo nói, “Chúng ta có sức mạnh, cớ sao phải để người khác thao túng? Tên họ Lục kia dám bắt giam Tam ca chỉ để gọi con bé họ Hàn đến, lẽ nào không đáng bị trả đũa? Quan Chân luôn nghe theo lệnh Hàn gia, chính bởi vì thế mới khiến Túc Châu gặp họa lớn, cũng nên để ông ta nếm mùi thất bại. Chúng ta không phải không cứu mà chỉ đến chậm, cuối cùng vẫn là Bùi gia giúp đánh đuổi quân Phồn, ông ta cũng chẳng thể nói gì.”

Bùi An Dân thấy Bùi Hựu Tĩnh vẫn không lên tiếng, bèn giục, “Ngũ đệ, đệ thấy thế nào?”

Bùi Hựu Tĩnh cụp mắt, chỉ nói một câu, “Bây giờ Bùi gia nghe ai?”

Trong phòng im bặt, bầu không khí trở nên căng thẳng.

Theo lý thì Bùi Hựu Tĩnh vẫn là gia chủ, nhưng ông đã ở ẩn nhiều năm, Bùi Quang Du lên nắm quyền lớn, dù thất bại ở thành Thiên Đức khiến Bùi Hưng Trị bị bắt giam, phải nhờ Bùi An Dân mời Bùi Hựu Tĩnh về, nhưng trong lòng Bùi Quang Du vẫn không phục.

Bùi Hưng Trị nhờ Bùi Quang Du mới trả được mối hận bị bắt giam, nay lại nghe những lời có lý lẽ, trong lòng rất hả hê, khẽ ho một tiếng, “Chỉ cần vì lợi ích gia tộc, hợp lý thì cứ làm, không nhất thiết phải nghe theo ai.”

Bùi Quang Du thừa thế lên tiếng, chậm rãi nói, “Đúng là đệ là gia chủ, bao năm qua có ai dám trái lời đệ? Đệ phải cúi đầu trước Hàn gia để đưa Tam ca về, bọn ta ai cũng cảm kích, nhưng sau đó đệ lại đồng ý xuất quân sang Lương Châu, giúp Hàn gia củng cố quyền lực. Nếu cứ mãi làm theo ý đệ thì đến bao giờ nhà họ Bùi mới có thể ngẩng đầu?”

Bùi An Dân lẫn Bùi Hưng Trị đều im lặng.

Bùi Quang Du tiếp tục, “Chúng ta hành sự phải vì gia tộc, đệ mất con một, ta sẵn sàng để Tử Viêm làm con thừa tự, có do dự gì đâu? Ta phản đối xuất quân sang Tây Châu, giờ có sai lầm không? Ta mượn sức Đại Hoàng tử để trừ khử Lục Cửu lang, kết quả ra sao? Nếu không lợi dụng thời cơ trời ban này để khuất phục Túc Châu, nâng cao thế lực của Bùi gia, chẳng lẽ chúng ta cứ phải vá víu vào hàn gia, mãi mãi theo sau họ?”

Bùi Hựu Tĩnh quét mắt nhìn mọi người, đoạn đứng dậy, lạnh nhạt nói, “Chuyện thừa tự bỏ đi, Tử Viêm giống huynh, ta cũng không định giành con của người khác. Nếu mọi người đều công nhận quyết định của huynh thì còn cần hỏi ta làm gì?”

Rồi chẳng chờ ai đáp, ông quay người bước ra khỏi phòng.

Bùi An Dân lưỡng lự một lát, vội vàng đuổi theo, “Ngũ đệ, đệ đừng trách Tứ đệ, đệ ấy chỉ muốn tốt cho gia tộc mà thôi.”

Bùi Hựu Tĩnh không dừng chân, chỉ dặn dò thuộc hạ, “Thu dọn hành lý, trở  về chùa.”

Bùi An Dân không nỡ, “Hà tất phải vậy, đều là anh em trong nhà–”

Bùi Hựu Tĩnh thản nhiên, “Anh em thì sao? Khi phải cúi đầu trước Hàn gia mới cần ta về, đến lúc thoát nạn lại không cam lòng. Tứ ca chưa từng dẫn quân, chỉ biết tính toán, không hiểu lòng người khó dò, không thể dùng mưu mẹo đùa giỡn. Hàn gia dùng lòng thành để thu phục dân tâm, còn huynh ấy chỉ mong đục nước béo cò, nếu cứ khôn lỏi như vậy, ai còn xem Bùi gia là đồng minh? Chờ đến khi mọi người rời bỏ, sẽ đến lượt Cam Châu bị quân Phồn treo cổ.”

Bùi An Dân khựng lại, muốn mở miệng nhưng chẳng biết nói gì.

Bùi Hựu Tĩnh nói tiếp, “Huynh ấy đắc ý cũng chri vì đã giúp Đại Hoàng tử loại bỏ Lục Cửu lang, được ban cho chức quan tứ phẩm. Chưa nói đến việc ngu xuẩn để bản thân dính vào cuộc tranh đoạt ngôi vị, ta chỉ nói một điều, họ Lục ấy mưu trí sâu xa, chắc chắn có lí do khác đằng sau việc mất tích.”

Nói đoạn, ông phớt lờ Bùi An Dân, cất bước đi dọc theo trường lang.

Chương trước
Chương sau