Phi hoàng dẫn – Chương 79 & 80
Chương 79: Thánh ý khó dò
Đánh vài thương nhân người Hồ chỉ là chuyện nhỏ, nhưng nếu vì giành giật một kỹ nữ thanh lâu mà đánh nhầm Vương tử Thổ Phồn đến để hòa đàm thì lúc đó sẽ trở thành đại sự chấn động toàn triều, chỉ sợ Lục Cửu lang sẽ lập tức bị trục xuất khỏi Trường An, bị đày đến biên cương xa xôi nào đó ăn đá ăn sỏi.
Quả là một kế hoạch tinh vi, chẳng qua người trù mưu đã bỏ sót một điều, đó là Lục Cửu lang không chỉ đã gặp Vương tử Đạt Già mà còn từng giao đấu với gã.
Dĩ nhiên Đạt Già không nhận ra người đàn ông mà gã chế giễu nhút nhát lại chính là người lính Hà Tây đã từng vung đao xông vào vạn quân năm xưa, lại càng chẳng ngờ vừa mới đến Trường An đã bị người khác lợi dụng. Gã vừa khinh thường sự yếu đuối của người Trung Nguyên vừa thản nhiên hưởng thụ sự phục vụ của mỹ nhân, chỉ có Tống Lang trung cúi đầu ủ rũ, không biết phải báo cáo thế nào.
Lục Cửu lang đã biết ai là kẻ ngấm ngầm sắp đặt, từ biệt đồng bọn rồi lập tức vào cung.
***
Trường An đang độ nắng chói chang, ngói lưu ly trên chín tầng cung điện phản chiếu muôn vàn tia sáng loá mắt, hệt như vẻ uy nghiêm của Thiên tử khiến không ai dám ngước nhìn.
Băng được đặt ở bốn góc Ngự thư phòng trong điện Cam Lộ, khiến không khí mát mẻ dễ chịu, mấy vị trọng thần đang thấp giọng bàn luận thì chợt có tiểu thái giám đi đến thông báo, mọi người lập tức im bặt, một bóng người màu vàng kim tiến vào.
Thiên tử bước đi đĩnh đạc, nét mặt nghiêm nghị, chẳng thể đoán được ngài đang vui hay giận.
Là một vị quân vương, quá trình ngài lên ngôi cũng thực ly kỳ. Hồi bé ngài trầm tính ít nói, vô cùng mờ nhạt trong số các hoàng tử, ai cũng ngỡ ngài là kẻ ngốc, hơn ba mươi năm sống trong cảnh bị coi thường, đến một ngày khi thời thế thay đổi, ngài bị kẻ tâm cơ đưa lên ngôi làm một con rối nhưng bất ngờ thể hiện bản lĩnh vượt trội, như tia sét quét sạch mọi tranh luận, từ đấy ngồi vững trên ngai vàng.
Nhiều năm ẩn nhẫn đã giúp ngài trở nên thâm trầm kín đáo, cũng khiến ngài đa nghi và thay đổi thất thường, ngay cả những cận thần cũng khó lòng biết được ngài đang nghĩ gì. Năm nay ngài đã quá tuổi ngũ tuần, tinh thần và thể lực kém hơn xưa nhưng vẫn do dự trong việc lập Trữ, thay vào đó ngài càng tin vào thuật luyện đan.
Nội Xu mật sứ Mã An Nam ân cần hỏi han, “Thần thấy sắc diện của Bệ hạ hồng hào, bước đi nhẹ nhàng, có vẻ long thể đã an khang?”
Chẳng mấy khi Thiên tử tỏ ra dễ chịu, “Đúng thế, đạo sĩ kia quả có tài, hiệu quả của đan dược rất tốt, Trẫm uống vào thấy tinh thần khỏe khoắn, chân cũng không còn đau nhức.”
Mã An Nam vốn xuất thân từ hoạn quan nên rất giỏi lấy lòng hoàng đế, cười nói, “Đó đâu phải do đạo sĩ, ấy là nhờ hồng phúc của Bệ hạ.”
Thiên tử thuận miệng hỏi, “Vì con nuôi của khanh đã tiến cử nên Trẫm sẽ ban thưởng, Tả quân còn vị trí trống không?”
Đinh Lương phụ trách Tả quân điềm tĩnh đáp, “Tâu Bệ hạ, gần đây Tả quân không còn vị trí trống, nhưng nghe nói Hữu quân đang cần bổ sung một tướng quân.”
Chỉ huy Hữu quân là Quý Xương không hài lòng, vị trí trống đó vốn đã ngầm định trước cho người khác, ông ta không vui đáp lại, “Không có chỗ trống thì sao, lẽ nào có thể làm khó Đinh đại nhân? Đợi một lượt rồi bổ sung cũng được, chung quy cũng là phục vụ cho triều đình.”
Đinh Lương mỉm cười nhưng lời lẽ sắc sảo, “Nếu đã có công với Bệ hạ thì đâu thể đợi bổ sung được, ban thưởng vậy không hay, Mã đại nhân thấy có đúng không?”
Mã An Nam khéo léo ứng xử, không làm mích lòng hai bên, “Ân sủng của Bệ hạ như phúc lành giáng trần, chỉ có thể cảm tạ không ngớt.”
Ba người đều là quyền thần, gặp nhau cười nói khách sáo nhưng không ngừng ngấm ngầm đấu đá, các hạ thần khác giả vờ không nghe thấy, cuối cùng Thiên tử quyết định ban cho một chức Trung lang tướng hư danh ở Tả quân.
Tể tướng Thẩm Đồng bước lên trước, “Tâu bệ hạ, đoàn sứ giả Tây Vực đã đến Trường An, đang chờ triều đình triệu kiến.”
Người Phồn chiếm giữ vùng cao nguyên phía Tây Nam, thường xuyên gây hấn với Trung Nguyên. Mãi tới khi Hà Tây quy về quốc thổ, triều đình được tiếp tinh thần, trong những năm qua đã dần dần thu phục ba châu bảy quan ải, quân Phồn cũng từ từ suy yếu; đồng thời ở Trung Nguyên nội loạn liên miên khiến quốc khố trống rỗng, triều đình không muốn kéo dài chiến tranh với Thổ Phồn nên đã định ra dịp hoà đàm.
Thiên tử đáp, “Ba ngày sau sẽ triệu kiến, giao cho Tuyên huy sứ(*) Nam Viện phối hợp cùng bộ Binh thảo luận đàm phán với người Phồn.”
(*) Tuyên Huy sứ chịu trách nhiệm quản lý các nghi lễ đón tiếp sứ thần, phụ trách tế lễ, yến tiệc trong cung đình và đôi khi còn phụ trách quản lý kho báu, tài sản của hoàng gia.
Thẩm Đồng tiếp tục tâu, “Chức tiết độ sứ Hà Tây đến nay vẫn chưa được sắc phong, Hàn Chiêu Văn lại lần nữa dâng sớ xin được định cư ở Trường An, tiếp tục kế thừa chí nguyện của Hàn Kim Ngô.”
Thiên tử không tỏ ý mà chuyển sang hỏi các đại thần.
Đinh Lương không chút do dự, “Từ sau khi Hàn Nhung Thu qua đời thì Hà Tây rối loạn liên miên, cho thấy sức mạnh của Hàn gia đã suy yếu, không nên tiếp tục cai quản mười một châu.”
Quý Xương không thể không phản đối, “Tình hình dân sinh ở Hà Tây rất phức tạp, không thể nói đổi là đổi được, một khi náo loạn chắc chắn Thổ Phồn sẽ thừa cơ xâm lăng.”
Đinh Lương lập tức phản bác, “Hiện nay đang hoà đàm, người Phồn sẽ không dễ dàng động binh, chính là cơ hội tốt để triều đình đưa một viên chức có năng lực đến Hà Tây thay thế, Bùi thị ở Cam Châu cũng là một thế lực lớn, sức mạnh tuyệt đối không thua kém Hàn gia.”
Quý Xương cười mỉa, “Chỉ sợ người Phồn lòng lang dạ sói, chưa chắc đã hiểu được sự tin tưởng của Đinh đại nhân, nếu thấy hai nhà Hàn Bùi tranh chấp, khéo có khi sẽ khởi binh làm loạn.”
Đinh Lương không chịu nhượng bộ, hừ một tiếng, “Cứ liên tục ban ơn cho Hàn gia cũng chẳng phải là giải pháp, chính vì bọn họ kém cỏi mới tỏ ra khiêm nhường, nếu triều đình kỳ vọng quá cao làm họ kiêu ngạo, có khả năng sẽ trở thành đại họa, vẫn nên nâng đỡ Bùi gia để cân bằng.”
Hai người tranh luận qua lại không ngớt, Thiên tử chỉ lắng nghe, không biểu lộ cảm xúc.
Mã An Nam thử phỏng đoán thánh ý, vừa giữ trung lập vừa cân nhắc, “Hà Tây cách xa vạn dặm, triều đình khó cai quản, trước mắt cần phải thử thách lòng trung thành của Hàn gia, không nên dễ dàng đáp ứng yêu cầu của họ; còn về phía người Phồn, từ lâu bọn chúng đã gian manh hung ác, không thể không đề phòng.”
Tể tướng Thẩm Đồng cũng không đồng tình với việc dễ dàng bỏ cũ thay mới, “Đáng tiếc Hàn Kim Ngô không có con trai trưởng thành tại Trường An, bằng không đưa người trở về nối nghiệp thì tốt quá.”
Đây cũng là kế sách quen thuộc của triều đình, để con tin được nuôi dưỡng tại Trường An về quê tranh quyền, chắc chắn sẽ bị anh em trong tộc đố kỵ, đến lúc đó con tin sẽ phải dựa vào sự ủng hộ của Trung Nguyên, càng tranh chấp càng đồng tâm với triều đình.
Các đại thần tranh luận một hồi lâu, Thiên tử vẫn chưa mở lời. Đợi khi bá quan lui ra, ngài cũng cảm thấy mệt mỏi, đứng dậy đi về phía Ngự Hoa Viên.
Ngũ hoàng tử Lý Duệ đến vấn an, đáng nhẽ theo lệ hoàng tử sau khi trưởng thành phải xuất cung xây phủ riêng, chỉ mình y được Thiên tử sủng ái, cho phép ở lại trong cung.
Thiên tử tình cờ hỏi, “Dạo này sức khoẻ của Phù nhi thế nào rồi?”
Lý Duệ trả lời, “Hôm qua nhi thần vừa đến Thập Lục Vương Trạch thăm, hoàng huynh đã khỏi bệnh, tinh thần rất tốt, xin phụ hoàng yên tâm.”
Thiên tử hài lòng gật đầu, “Là em trai, hoàng nhi làm thế rất tốt, Phù nhi có thể chất yếu, hãy để nội khố đưa thêm thuốc bổ sang, bảo nó nghỉ ngơi dưỡng sức, đừng bận tâm những việc nhỏ nhặt.”
Đại Hoàng tử Lý Phù thường xuyên ốm yếu, thực ra cũng không phải là điều xấu. Vốn dĩ y không được lòng phụ hoàng, nhưng vì các đại thần khuyên nhủ nên Thiên tử vẫn giao cho một số chính sự, song thái độ rất nghiêm khắc, thường xuyên trách mắng. Chỉ khi bệnh tật y mới được giảm nhẹ trách nhiệm, và cũng vì Thiên tử niệm tình cốt nhục mà mối quan hệ cha con mới có thể duy trì.
Thiên tử rất mực yêu thương Lý Duệ, “Hoàng nhi cũng biết về việc ở biên cương, vậy có hiểu mục đích của cuộc hòa đàm lần này không?”
Lý Duệ rất cần mẫn chính sự, trả lời trôi chảy, “Dù đã thu phục được Hà Tây nhưng Lương Châu vẫn nằm trong tay người Phồn, đó vẫn là một mối lo lớn. Nếu biên giới có thể yên ổn vài năm, đợi khi tiền thuế tích lũy đầy đủ thì có thể thử thu phục Lương Châu, giải trừ mối lo ở bờ Tây.”
Thiên tử tán dương, “Đúng vậy, có tin hiện giờ đất Thổ Phồn cũng không yên, những đứa con trưởng thành đều có sự ủng hộ của mẫu tộc, tranh chấp rất quyết liệt. Vương đệ Ương Cách nhờ tập kích giết chết Hàn Nhung Thu mới được trọng dụng, quốc tướng Khố Bố Nhĩ không cam lòng thất thế nên đã phò tá ấu tử của Phồn vương nổi dậy. Dù đã bị Ương Cách tiêu diệt nhưng mối bất hoà khúc mắc giữa các bộ tộc vẫn còn đó.”
Lý Duệ hiểu rõ ý, “Vì vậy người Phồn mới đề xuất hòa đàm, chúng cũng cần thời gian dưỡng sức.”
Thiên tử chậm rãi bước đi, ngắm hoa thơm ven đường, “Đúng thế, nhưng người chủ trương hòa đàm là Ương Cách, còn kẻ đến lại thuộc phe Địch Ngân, chưa chắc có thể đạt được thỏa thuận. Hoàng nhi cứ theo dõi xem thế nào, coi như trau dồi kinh nghiệm.”
Lý Duệ từng tuần tra Tây Bắc, nghe nói Địch Ngân không cam lòng bị đày đến nơi xa, một lòng muốn tiến thân bằng chiến công, dã tâm bừng bừng cướp đoạt Hà Tây, gây ra sự bất hòa giữa hai nhà Hàn, Bùi. Người như vậy làm sao chịu hòa đàm, e rằng không muốn Ương Cách đạt được thỏa thuận, nâng cao danh vọng nên mới để em trai Đạt Già đến làm sứ giả.
Y liền đáp, “Nhi thần hiểu rồi, nhất định sẽ cẩn thận quan sát.”
Bầy vịt trên ngự trì dẫn đàn vịt con bơi qua, Thiên tử đưa mắt nhìn, bỗng hỏi, “Lục Cửu lang vốn xuất thân từ Hàn gia, rốt cuộc có liên hệ gì với bọn họ không?”
Lý Duệ đã điều tra kỹ lưỡng, cẩn trọng đáp, “Có tin đồn rằng hắn là huyết mạch ngoài giá thú của Hàn Nhung Thu, nhưng không có chứng cứ rõ ràng, Hàn gia chưa bao giờ thừa nhận và bản thân hắn cũng không hề hay biết.”
Mà dù có thực sự là huyết mạch của Hàn gia đi chăng nữa, nếu không có sự chống lưng của mẫu tộc hay được thân tộc công nhận thì chẳng khác nào cây mất rễ, dẫu được sắc phong cũng không thể kiểm soát Hà Tây. Thiên tử trầm ngâm một lúc, bỏ qua ý định, “Người này có thể trọng dụng, việc ở Lĩnh Nam xử lý rất tốt, trước mắt cứ cho nhậm chức ở Hữu quân đi.”
Điều này hợp với mong muốn của Lý Duệ, y vô cùng phấn khởi, nhưng ngoài miệng vẫn nói, “Hắn còn quá trẻ, không có căn cơ lẫn gia thế, nếu đột ngột được cất nhắc vào Hữu quân chỉ sợ sẽ bị người ta bàn tán.”
Thiên tử ẩn ý nói, “Không có căn cơ càng tốt, như thế hành sự mới có thể dứt khoát, sử dụng người như vậy sẽ rất thuận lợi, mà khi xử lý cũng dễ dàng.”
Thái giám bưng tới một khay vàng đựng chén ngọc, trong chén là một viên đan màu đỏ tròn trĩnh.
Thiên tử nhặt viên đan đỏ lên nuốt xuống, hơi nóng nhanh chóng lan tỏa khắp thân thể khiến tinh thần ngài thăng hoa, không còn muốn nghĩ đến chính sự, lập tức đuổi con trai đi rồi rảo bước tới hậu cung.
___________________
Chương 80: Đối đầu tranh chấp
Trước khi lên đường Hàn Chiêu Văn đã chuẩn bị tâm lý, tuy Hàn gia nắm giữ quyền lực lớn ở vùng Hà Tây nhưng vẫn chưa nhận được chiếu chỉ sắc phong mới, điều này đã cho thấy thái độ của Thiên tử, ngoài mặt bá quan vẫn tỏ vẻ kính trọng song nào có chuyện không nhận ra, trong lúc giao tiếp chắc chắn không thiếu những lời mỉa mai chê bai, bợ cao giẫm thấp, nhưng y không ngờ tình hình thực tế lại tốt hơn nhiều.
Đấy cũng là nhờ cô em gái nhà y. Hàn Minh Tranh là nữ tướng quân vô song đương thời, ngay cả Thiên tử cũng tò mò triệu kiến, huống hồ là văn võ bá quan. Không cần Hàn gia phải đến thăm viếng, vô số thiệp mời ùn ùn đổ về, từ hoàng phi cho đến công khanh, ai ai cũng muốn được tận mắt chiêm ngưỡng Xích Hoàng.
Tư Trạm đi theo tham gia hai buổi tiệc, vô cùng kinh ngạc trước sự nhiệt tình của dân chúng Trường An, đến khi phát hiện các quý nữ trong thành bắt đầu thịnh hành mặc y phục nam giới tối màu, vấn tóc đeo phát quan, anh tuấn hệt như nam nhi, cậu càng thêm há hốc.
Nhờ làn gió ấy, con đường kết giao của Hàn Chiêu Văn diễn ra suôn sẻ đến kỳ lạ, Tư Trạm cũng nhận được nhiều sự chú ý, làm quen với không ít con cháu thế gia. Một lần trong buổi tiệc nọ, cậu còn bị kéo vào trận đấu mã cầu, trở thành thành viên của đội Trung lang tướng Tả quân Tôn Khuê.
Trận mã cầu có hai đội nam nhi tranh tài, trận đấu diễn ra vô cùng gay cấn, thu hút lượng lớn người xem. Tôn Khuê chọn ra những cao thủ trong Cấm quân, ai nấy đều khỏe mạnh lực lưỡng, thành thục cưỡi ngựa. Phe đối thủ là thị vệ trong cung, kỹ năng cưỡi ngựa kém xa thấy rõ, chỉ chốc lát đã bị dẫn trước điểm số, trông vô cùng thê thảm.
Tư Trạm thể hiện xuất sắc, ghi điểm liên tục, khi đang đắc ý thì phía đối diện thay người.
Người ấy có thân hình cao lớn, vẻ ngoài tuấn tú phi phàm mang phong thái phóng đãng bất cần, tư thế cưỡi ngựa lại vô cùng đẹp mắt, lưng eo thả lỏng, khống chế ngựa cực kỳ linh hoạt, Tư Trạm vừa nhìn đã biết người này lợi hại, lập tức cẩn thận đề phòng.
Quả thật kỹ thuật cưỡi ngựa của người này vô cùng điêu luyện, cầm cúc trượng lao nhanh như điện xẹt, liên tục ghi điểm, khiến khán giả hò reo không ngớt, không khí trở nên náo nhiệt gấp bội. Tôn Khuê vô cùng căng thẳng, hô hào mọi người chặn trái cản phải nhưng vẫn bị đối phương dẫn dụ chạy khắp nơi, cả đội vừa mệt vừa loạn, thảm hại không thôi, gây nên một trận cười vang.
Tư Trạm thấy đối phương chuẩn bị đánh bóng bèn vung gậy chặn lại, nhưng người kia kịp thời né tránh, khi lướt ngang qua bỗng vung cúc trượng chạm vào ngang hông, lực mạnh tới nỗi làm Tư Trạm suýt ngã ngựa. Cậu ổn định cơ thể, liếc nhìn đối phương, thấy người kia trưng vẻ mặt uể oải nhưng ánh mắt ngập ý khiêu khích, cậu không khỏi giận dữ, dốc toàn lực thi đấu.
Người kia cứ như cố tình đối chọi với cậu, cả hai tranh đấu vô cùng ác liệt, chiêu thức hiểm hóc, cúc trượng và quả bóng bay loạn xạ, tạo nên cảnh tượng vô cùng đặc sắc. Nhưng nói gì đi nữa Tư Trạm vẫn còn trẻ, làm sao địch nổi sự trí trá của đối phương, liên tục bị mắc mưu khiến hắn nhiều lần tung bóng ghi điểm.
Tiếng hò reo ở bên ngoài càng lúc càng lớn, đối thủ đã khoe trọn phong độ, giành chiến thắng ba hiệp liền.
Tư Trạm chưa bao giờ gặp đối thủ gian manh như vậy, cả người thấm đẫm mồ hôi mệt mỏi, thua không chút tâm phục khẩu phục. Cậu trông thấy người kia được đám con cháu thế gia vây quanh, liếc cậu một cái rồi nở nụ cười châm chọc, cậu lập tức bốc hoả.
Tôn Khuê vừa mới thăng quan, một lòng muốn phô trương mà ai ngờ lại bị đánh cho tơi tả, đương nhiên vô cùng tức giận, song cũng chẳng muốn mất mặt trước đám người Lục Cửu lang, giở giọng mỉa mai, “Lục Thương Lang hay lắm, chỉ giỏi ra tay với các huynh đệ, Tư tiểu ca mới mười bảy tuổi, là tiểu đồng hương của Hà Tây mà cũng không nương tay?”
Tư Trạm giật mình, bấy giờ mới biết người kia chính là Lục Cửu lang. Mấy năm trước cái tên này từng nổi tiếng khắp Sa Châu nhưng rồi nhanh chóng biến mất không dấu vết. Hồi đó cậu còn nhỏ, không biết rõ nội tình lắt léo, lần này xuất hành mới nghe Hàn Chiêu Văn nhắc tới, hiểu rằng cần phải đề phòng, thế là nảy sinh cảnh giác.
Lục Cửu lang sửng sốt, sau đó cười khẩy, “Nhìn dáng vóc không nhỏ mà mới mười bảy tuổi thôi à? Thôi, xem như là lỗi của ta, mời các huynh đệ uống rượu một bữa.”
Tôn Khuê từng bị Lục Cửu lang chuốc rượu đến nôn mửa ngay trong cung yến, từ đó ôm mối hận, bây giờ nghe thế thì chợt dao động, hỏi nhỏ Tư Trạm, “Tửu lượng của ngươi thế nào?”
Người Hà Tây quen uống rượu mạnh, Tư Trạm cũng không nghĩ nhiều, “Cũng tạm, uống trăm chén không thành vấn đề.”
Tôn Khuê thừa cơ khích lệ, “Ngươi xem Lục Cửu lang kiêu ngạo chưa kìa, thật đáng ghét, trên bàn nhậu hắn ta rất hay thể hiện, lát nữa đến tửu lầu ta nhất định phải chuốc hắn một trận, trả thù thay mọi người.”
Tư Trạm cũng đang tức giận nên lập tức đồng ý, còn đặc biệt đi mượn viện ngọc giải tửu từ Hàn Minh Tranh.
Hàn Minh Tranh bị các quý nữ xúm lấy, chẳng kịp hỏi han mà cứ vậy đưa túi thơm cho cậu.
Lục Cửu lang bị đồng bạn vây quanh, ánh mắt khẽ liếc không chút dấu vết.
Đợi Tư Trạm trở lại, Tôn Khuê đã nhận lời mời từ đội của Lưu Biền, cả hai nhóm cùng kéo đến tửu lầu đánh chén thỏa thích.
Tư Trạm có tửu lượng tốt đấy, nhưng vừa uống được một nửa đã biết mình không phải là đối thủ của Lục Cửu lang, lấy cớ rời phòng rồi lấy viên ngọc trong túi thơm ra, định đặt vào dưới lưỡi, đúng lúc này đột nhiên bị một bàn tay giật mất.
Lục Cửu lang âm thầm theo sau, trắng trợn cướp đồ, “Tư tiểu ca chạy đi đâu đấy, còn chưa thi uống rượu xong mà.”
Tư Trạm vô cùng hoảng hốt, lại không tiện to tiếng, “Trả lại cho ta!”
Lục Cửu lang nắm chặt viên ngọc, chậm rãi nói, “Không biết đây là thứ gì, hay là để các huynh đệ thưởng thức một chút?”
Tư Trạm hoảng loạn, nếu công dụng của vật này bị tiết lộ thì chắc chắn tướng quân nhà mình sẽ bị người ta bàn tán, cậu vội dịu giọng năn nỉ, “Là ta không địch lại Lục tướng quân, cam tâm nhận thua, xin hãy trả viên ngọc lại cho ta.”
Lục Cửu lang cười gian xảo, bỗng hạ giọng nói, “Bảo với Hàn Thất, nếu muốn lấy lại thì trèo tường đến tìm ta.”
***
Cấm quân là đội quân hộ vệ Thiên tử, chia làm hai bộ phận Tả Hữu, qua nhiều thế hệ đều do hoạn quan chấp chính. Những người giữ chức vụ thống lĩnh không ai là không có địa vị phi phàm, quyền lực che trời, thậm chí có thể ảnh hưởng đến việc lập tân đế. Đinh Lương và Quý Xương mỗi người cai quản một quân, đều là tâm phúc của Thiên tử, quyền thế lớn tới nỗi ngay cả Tể tướng cũng phải kiêng nể vài phần.
Các tướng lĩnh của hai quân có thể thăng chức mà không cần triều đình phê duyệt, bổng lộc cao gấp ba lần các quân khác, mỗi dịp đại xá còn được ban thưởng thêm, khiến người ngoài nứt mắt ganh tị, nhiều quan lại và phú hộ không tiếc bỏ ra số tiền lớn để lo lót hòng đưa con cháu nhà mình vào Cấm quân.
Lục Cửu lang từng làm thị vệ trong Cấm quân, song vì xuất thân thấp kém nên không được đồng liêu coi trọng, mãi đến khi ra ngoài lập công, được Thiên tử đề bạt, thế là một bước trở thành tướng quân của Hữu quân khiến văn võ bá quan ai nấy đều kinh ngạc.
Quý Xương mặc áo gấm thêu rồng, hờ hững cười nói đón tiếp hắn, “Lục tướng quân quả thật không tệ, ngay cả Hoàng thượng cũng đích thân khen ngợi, chỉ sợ ao nước của Hữu quân quá nông, không chứa xuể tài năng của ngài.”
Lục Cửu lang điềm nhiên đáp, “Nào có chuyện đó, được phục vụ dưới trướng Quý đại nhân là phúc ba đời của thuộc hạ. Dù là việc lớn hay nhỏ, xin đại nhân tuỳ ý sai bảo, thuộc hạ nhất định dốc hết sức lực dẫu có phải thịt nát xương tan.”
Dù bị Quý Xương phớt lờ suốt hai canh giờ và cũng không có ghế để ngồi, Lục Cửu lang vẫn mỉm cười thản nhiên, không để lộ chút sai sót nào.
Quý Xương bực bội, không muốn tiếp tục cay nghiệt nên nâng chén tiễn khách.
Tâm phúc đứng bên cạnh ghé lại hỏi, “Đại nhân bỏ qua cho hắn dễ dàng vậy à, không định để hắn nếm chút lợi hại sao?”
Tuy Quý Xương có vẻ lạnh lùng nhưng thâm tâm cũng hiểu rõ mọi chuyện, hừ lạnh một tiếng, “Hoàng thượng muốn trải đường cho Ngũ Hoàng tử, ta hà tất làm kẻ tiểu nhân. Cứ đợi mà xem, Đinh Lương muốn phò tá Đại Hoàng tử, chắc chắn sẽ không để hắn được thăng tiến yên ổn, ta chỉ việc ngồi xem kịch hay.”
Hữu quân đóng tại cửa Ngân Đài phía Tây, Lục Cửu lang dẫn Thạch Đầu đến nhận chức, rất có khí thế của người được Thiên tử sủng ái, ra tay hào phóng rộng rãi, chưa tới mấy ngày đã quen lề quen lối, vô cùng thuận lợi như cá gặp nước.
Lý Duệ cùng bộ Binh đàm phán với sứ giả Thổ Phồn, y có thần thái rồng phượng, dung mạo anh tuấn, tự tin bình tĩnh, hoàn toàn không bị uy hiếp bởi khí thế của người Phồn, lại có hiểu biết sâu sắc về tình hình biên giới, lý lẽ vững vàng, được các triều thần hết lời khen ngợi.
So với y, Đại Hoàng tử Lý Phù ngày càng trở nên mờ nhạt. Dù nổi tiếng là người nhân từ nhưng Lý Phù thường xuyên ốm yếu, năng lực trị quốc tầm thường, chưa bao giờ thể hiện được sự anh minh và quyết đoán của một hoàng trưởng tử.
Ngay cả Vinh Lạc Công chúa sau khi vui chơi ở Lạc Dương trở về thăm Lý Phù, cũng vô tình nói một câu, “Những năm gần đây tinh lực của phụ hoàng giảm sút, khó khăn lắm mới chịu buông quyền, vậy mà hoàng huynh lại thường xuyên ốm yếu, nếu không thì chuyện hòa đàm lần này vốn do huynh đứng ra cầm trịch, đâu tới lượt Ngũ ca chiếm hết công lao.”
Lý Phù tỏ vẻ bất đắc dĩ, “Cơ thể huynh yếu đuối cũng đành chịu, biết làm thế nào được. Ngũ đệ có thể san sẻ lo toan cho phụ hoàng, huynh cũng cảm thấy yên lòng.”
Vinh Lạc Công chúa vốn thân thiết với Lý Phù hơn các huynh đệ khác vì cùng mẹ sinh ra, nhưng cũng không vừa mắt trước sự nhu nhược của huynh trưởng, bất mãn nói, “Ngự y luôn bảo bệnh tình của hoàng huynh là do gan khí tích tụ, lo nghĩ quá độ; huynh là hoàng trưởng tử, là Trữ quân tương lai, có gì phải lo lắng cơ chứ, cứ việc trừng phạt đám tiểu nhân xu nịnh kia là được.”
Lý Phù lắc đầu cười khổ, “Phụ hoàng chưa từng nói rõ sẽ lập ai làm Trữ, nay lại để Ngũ đệ thay quyền, ý tứ quá rõ ràng, các triều thần cũng nhận ra chiều hướng ấy, Ngũ đệ quả thực tài giỏi hơn huynh.”
Vinh Lạc nghe không thuận tai, tức giận bảo, “Theo quy củ, đích trưởng tử mới là người được chọn làm Trữ quân, dù phụ hoàng chưa lập chiếu chỉ nhưng ngôi vị hoàng đế vẫn là của huynh, sao huynh có thể im lặng để người khác lấn lướt, khiến đám nô tài nhận lầm chủ nhân?”
Lý Phù giật mình, xua tay lia lịa, “Nếu muội thật lòng lo cho huynh thì chớ có nói những lời ấy. Đừng nói chuyện này nữa, muội vừa từ Lạc Dương trở về, đúng lúc huynh cũng khỏi bệnh, ít hôm nữa sẽ tổ chức yến tiệc tại Lạc Du Nguyên, mời thêm khách khứa, coi như đón gió tẩy trần cho muội.”
Vinh Lạc Công chúa vốn ham vui, nghe vậy rất mừng, nũng nịu nói, “Có gì mới mẻ đâu, năm nào cũng quanh đi quẩn lại chừng ấy người.”
Lý Phù không hổ là huynh trưởng chu đáo, mỉm cười trêu, “Không phải trước đó có người vừa mắt muội sao, chẳng lẽ đã chán rồi?”
Vinh Lạc Công chúa tức giận, “Đừng có nhắc đến Lục Cửu lang, muội chỉ muốn hắn đi chơi chung, thế mà Ngũ ca nổi giận, còn trách mắng muội một trận, chẳng nghĩ gì đến tình cảm huynh muội.”
Lý Phù nhíu mày, cười thở dài, “Bỏ đi, Ngũ đệ được sủng ái, nếu ầm ĩ đến chỗ phụ hoàng thì chỉ thiệt thòi cho muội thôi. Hay muội xem đám thị vệ trong phủ huynh, có người nào giống thì cứ dẫn về.”
Lục Cửu lang không chỉ tuấn tú nổi bật mà còn tinh tế khéo léo, nói chuyện lại dễ nghe. Vinh Lạc vốn đã nguôi ngoai, nay nghe y nhắc đến lại cảm thấy bứt rứt, hậm hực nói, “Đám người kia không ngốc nghếch thì cũng khờ khạo, chẳng có ai giống hết. Trước đây chính hoàng huynh nói người bên cạnh Ngũ ca không tồi nên muội mới để ý, giờ huynh phải giúp muội.”
Lý Phù bật cười, cảm thấy oan uổng, “Huynh chỉ thấy hắn tuấn tú nên mới buột miệng nói ra, đâu ngờ muội lại mê hắn tới vậy. Ngũ đệ không dễ nói chuyện, nếu huynh ra mặt, nhất định đệ ấy sẽ sinh nghi, làm sao dám phạm kiêng kỵ.”
Vinh Lạc Công chúa nhõng nhẽo với huynh trưởng, “Muội ứ cần biết, huynh nhất định phải nghĩ cách giúp muội.”
Lý Phù kín đáo thăm dò, “Muội thích hắn vậy sao, chẳng lẽ muốn hắn làm Phò mã? Nhưng phụ hoàng đã chọn Uông Tông cho muội rồi, gần đây còn thăng hắn lên chức Hữu Thập di(*), ban cho quan phục đỏ, chỉ cần thăng thêm một bậc nữa là có thể thành thân.”
(*) Hữu thập di là chức quan được đặt ra từ thời nhà Đường, chuyên về việc khuyên can các điều lầm lỗi của vua.
Vinh Lạc Công chúa tỏ vẻ bất mãn, “Uông Tông nhạt nhẽo nhưng dù gì cũng là con cháu sĩ tộc, làm Phò mã vẫn tạm được, nhưng sao có thể cưới Lục Cửu lang, một kẻ xuất thân nghèo hèn mà xứng với công chúa ư? Muội chỉ muốn hắn đi cùng để vui vẻ một chút mà thôi.”
Ánh mắt Lý Phù lóe lên tia sắc lạnh, “Nếu đã vậy, trong yến tiệc sắp tới, muội có thể kín đáo nhờ thống lĩnh Hữu quân Quý Xương cho mượn người một tháng, kiểu gì ông ta cũng phải nể mặt. Chỉ cần ông ta đồng ý, Ngũ đệ cũng không tiện ngăn cản, chẳng phải là xong việc sao?”
Vinh Lạc Công chúa nghe vậy liền vô cùng vui mừng, lập tức khen ngợi huynh trưởng không ngớt lời.
Đại hoàng tử xem ra cũng kiểu ẩn nhẫn như Thiên tử trước đây. Đúng là cha con
Công nhận bộ này vẽ cái nết di truyền nhân vật nó giống nhau ghê =))
Mấy ông anh nhà họ Hàn tài thì ko tới, có nền tảng cha xây cho mà ko bình định nổi Hà Tây, về kinh cũng phải khom lưng mà bày đặt khinh Lục cẩu. Ngứa mắt hết sức.