Phi hoàng dẫn

Phi hoàng dẫn – Chương 17 & 18

Người Phồn xuất thân từ vùng cao nguyên lạnh lẽo, vạm vỡ khỏe mạnh, thường nhân lúc Trung Nguyên suy yếu kéo quân xâm lược, cướp bóc trắng trợn, bắt thanh niên trai tráng làm nô binh, đồng thời giết hại người già trẻ nhỏ, hủy diệt sinh cơ của cả một vùng. Khi Trung Nguyên mạnh mẽ còn có thể chống cự, đến lúc suy yếu đành mặc chúng xâm lăng. Gần trăm năm trôi qua, đất Hà Tây đánh mất chưa thể lấy về, cũng cắt đứt tuyến đường giao thông giữa các nước Tây Vực và đất Hán.

Chẳng ai ngờ rằng khi triều đình không còn sức lo liệu, vùng đất bị đánh mất gần cả thập kỷ vẫn chưa quên cố quốc, như một kỳ tích đã đánh đuổi được quân thù, vượt khói bụi gửi tin tức về Trung Nguyên.

Hàn Nhung Thu, vị anh hùng thời đại, vượt ngàn dặm đến thành Thiên Đức chính là để quy phục triều đình, đưa Hà Tây trở về đất Trung Nguyên.

Cùng với tấm bản đồ Hà Tây từ từ mở ra, nào quân thư ghi lại chiến tích huy hoàng, nào hộ tịch của dân chúng năm châu, ấn vàng, roi vàng cùng châu báu thu hoạch từ quân Phồn đều khiến người ta kinh ngạc tán thưởng.

Các quan lớn có mặt không kìm nổi cảm thán, thành Thiên Đức là một thành quân sự, mỗi người đến đây trấn thủ biên cương đều đã từng nhìn về Hà Tây nơi xa, từng nghe kể về thảm cảnh sau khi mất đất, hiểu rõ ý nghĩa của mảnh đất ấy đối với Trung Nguyên.

Mọi người đều rõ, dù Hàn Nhung Thu dâng tấu xưng thần nhưng trong tay ông nắm giữ hùng binh, có khả năng sẽ lợi dụng vùng đất ấy để đề cao địa vị, trở thành một mầm hoạ khác sau người Phồn.

Mọi người cũng biết, người Phồn vẫn đang dòm ngó hòng cướp đoạt lại, Hà Tây kiên cường đối địch, trong phủ Phồn cơ đã có cuộc đấu máu.

Mọi người càng hiểu rõ, triều đình còn chưa tỏ ý, chưa biết rốt cuộc nên coi Hà Tây là bạn hay thù.

Nhưng lúc này, trong lòng mọi người đều sinh lòng tôn kính, một loại cảm phục vô hình vô chất. Người đàn ông khiêm tốn, ngoại hình chất phác này lại là một anh hùng chân chính.

Hàn Nhung Thu không nói nhiều về mình mà chỉ khen ngợi thuộc hạ nhập thành, chỉ vào một người trung niên sắc sảo giới thiệu, “Đây là Phương Cảnh, hậu duệ người Túc Đặc, tinh thông thương pháp, anh dũng thiện chiến, đầu lĩnh giặc ngoại xâm chiếm Sa Châu đã chết dưới tay ông ấy.”

Mọi người trầm trồ tán thưởng, nhìn người với ánh mắt nể phục.

Hàn Nhung Thu lại vỗ vai một đại hán khác, lưng hùm vai gấu, chỉ nhìn qua đã biết mạnh mẽ nhường nào, “Đây là Triệu Anh đến từ bộ lạc Thông Giáp, chỉ huy Huyền Thủy quân, khởi binh tấn công quân Phồn ở Qua Châu, một trận đã đánh chết đại tướng.”

Người thứ ba Hàn Nhung Thu chỉ vào lại là một tăng nhân, “Đây là thượng sư Hoằng Hải, có Phật tâm mà cũng có sức mạnh to lớn, được đại sư Quan Chân truyền thụ, thống lĩnh mười mấy nghìn tăng binh của Hậu Thổ quân.”

Hoằng Hải đầu trọc, mặc cà sa, toàn thân cuồn cuộn cơ bắp, dũng mãnh uy nghiêm như kim cang lực sĩ ngồi dưới đài Bồ Tát.

Các nơi Tây Vực sùng tín Phật giáo, người Phồn coi dân chúng như trâu ngựa nhưng lại khoan dung với tăng lữ, nhiều đại tộc còn cho con cháu xuất gia nhằm bảo tồn gia sản, đưa ruộng đất nhập vào chùa, khuếch trương chùa miếu. Tăng nhân có võ thuật mạnh mẽ, trong chùa thường chuẩn bị đao binh thiết thuẫn, khi khởi binh phản Phồn liền trở thành một cánh quân hùng mạnh.

Thiên Đức quân tán thưởng xong, lại có chút nghi ngờ, Đỗ Hòe hỏi, “Lần này sao không thấy Nhuệ Kim quân?”

Quân Hà Tây không chỉ gồm một quân mà là năm quân hợp xưng, gồm Thanh Mộc và Xích Hỏa quân của nhà họ Hàn, Nhuệ Kim quân của nhà họ Bùi, Huyền Thủy quân của nhà họ Triệu và Hậu Thổ quân của tăng gia. Hàn Nhung Thu đến đây chỉ thiếu mỗi nhà họ Bùi, lẽ nào thật như lời đồn là Hàn – Bùi bất hòa?

Hàn Nhung Thu bình tĩnh đáp, “Dã tâm của người Phồn chưa tắt, tất phải có nhân thủ ở lại đề phòng, vị đại nhân đây nếu rảnh rỗi đến Hà Tây sẽ gặp được.”

Ngụy Hoằng cười, “Đỗ đại nhân đừng mắc bẫy, nghe nói Sa Châu phồn hoa không thua Trung Nguyên, mỹ nhân lại vô số, đi rồi khó tránh bị mê hoặc, quên cả trở về.”

Mọi người cười lớn, bầu không khí rất vui vẻ, hai bên bàn luận chính sự, đột nhiên có người xông vào.

Người đến chính là Phó sứ Đồng Thiệu, đi theo sau là Lư Tốn, hắn lẽ ra phải bị cấm túc trong phủ nay lại ngang nhiên xông vào, kiêu ngạo nói, “Sứ giả Hà Tây đến hội đàm, ta cũng là Phó sứ, sao lại không ai báo tin, suýt nữa đã lỡ mất!”

Chu Nguyên Đình lão luyện, không lộ cảm xúc, “Đồng đại nhân đã đến, vậy chi bằng cùng nghe.”

Đồng Thiệu cười lạnh ngồi xuống, nói với Hàn Nhung Thu, “Chỉ nghe sao đủ, ta còn phải thay Thánh thượng phòng ngừa, ít nhiều cũng phải hỏi mấy câu! Hà Tây cách đây ngàn dặm, bao năm không có tin tức, nay các hạ đến rốt cuộc là muốn đoạt thành Thiên Đức hay chiếm đoạt Trung Nguyên?”

Lời lẽ sắc bén đầy địch ý, rõ ràng hắn ta đến nhằm mục đích phá rối, sắc mặt mọi người thoắt thay đổi.

Hàn Nhung Thu điềm nhiên đối đáp, “Cả hai đều không phải, cớ gì Phó sứ đại nhân lại nói vậy.”

Đồng Thiệu bức bách, “Hàn đại nhân giả vờ phục tùng chẳng qua là để lừa lấy sự ủng hộ của triều đình. Quân đội Hà Tây lợi hại cỡ nào, một khi xâm lược Trung Nguyên, còn hung hãn hơn người Phồn. Chó nhà còn nuôi được, hổ dữ sao dung, dù các hạ có thề thốt, bọn ta cũng không dám tin!”

Hàn Nhung Thu từ tốn nói, “Tổ tiên ta quê ở Lũng Sơn, gia tộc nhiều đời làm tướng thủ thành Sa Châu. Khi Trung Nguyên nội loạn, điều Lũng Hữu quân đi, người Phồn kéo quân xâm lược, tổ tiên một mình đưa quân Hà Tây chống trả, không nhận được một viện binh cứu trợ. Khuếch Châu, Lương Châu, Lan Châu, Qua Châu lần lượt thất thủ, chỉ có Sa Châu kiên cường phòng thủ hai mươi sáu năm, trước khi qua đời tổ tiên để lại di ngôn, tự vấn không thẹn với triều đình và dân chúng Hà Tây.”

Đồng Thiệu sầm mặt, “Tổ tiên nhà ông như vậy, con cháu chưa chắc đã được bằng. Hà Tây bị dị tộc thống trị gần trăm năm, mặc đồ Hồ, nói tiếng Hồ, tập tục chẳng khác gì người Hồ? Chẳng qua là muốn mượn danh đất xưa để lừa triều đình lấy tiền của!”

Bầu không khí ngột ngạt tột đỉnh, song Hàn Nhung Thu vẫn chậm rãi đối đáp, “Đồng đại nhân có biết Hà Tây sau khi thất thủ ra sao không? Người Phồn coi chúng tôi như chó lợn, bắt làm nô tì, đến mùa thu còn cướp bóc thuế ruộng và phụ nữ, luồn thừng qua xương vai để trói, dùng tay cụt móc mắt làm trò. Dân chúng chịu đựng nhục nhã, một lòng nhớ đến triều đình, như con trẻ bị bắt nạt muốn được trở về vòng tay cha mẹ.”

Thảm cảnh Hà Tây từ nhiều năm qua đã truyền đi khắp nơi, mọi người có mặt rưng rưng xúc động.

Hàn Nhung Thu lại nói, “Hơn mười năm trước, Thánh thượng cử sứ giả kết minh với người Phồn, sứ giả đi qua Hà Tây, dân chúng hay tin có sứ giả cố quốc tới đều kéo đến bái kiến, quỳ khóc không ngừng, hỏi Thánh thượng có bình an không? Con cháu chúng tôi không quên cố quốc, triều đình còn nhớ không? Hôm nay Hàn mỗ đến đây cũng muốn thay mặt vạn dân hỏi Thánh thượng, liệu triều đình có còn nhớ con dân Hà Tây đã chịu tủi khổ? Có muốn cứu cốt nhục thất lạc nhiều năm khỏi kiếp nạn này?”

Một câu nói chân thành đầy cảm xúc, khiến nhiều người cảm thấy xót xa, không khỏi thở dài.

Đồng Thiệu nhất thời câm lặng, nhưng sau đó còn hỏi, “Nếu đã đánh bại được người Phồn, vì sao Hà Tây vẫn rèn luyện binh mã, có dám nói không có dã tâm chiếm đoạt Trung Nguyên?”

Một lời nói làm không khí thay đổi, đâm trúng tim đen của Thiên Đức quân.

Hàn Nhung Thu đối đáp tự nhiên, bình tĩnh nói, “Đại nhân thật sự nghĩ Hà Tây đã an toàn hay là cố tình không biết? Tuy hiện tại đã lấy lại năm châu song vẫn còn bảy châu nằm trong tay người Phồn, lại thêm phía bắc có Hồi Hột, phía tây có Vu Điền, phía đông có Thổ Hồn, bốn phía thụ địch, khó được một đêm yên ổn. Hà Tây khẩn thiết quy phục chính là mong được che chở bởi Thiên uy, không còn phải ngày ngày lo sợ.”

Đồng Thiệu không tìm được lời phản bác, cố ý móc mỉa, “Hàn đại nhân dùng binh như thần, trong mắt người Phồn chẳng khác nào mãnh hổ, vì sao lại ở đây tỏ vẻ trẻ con.”

Hàn Nhung Thu điềm nhiên, “Đại trượng phu dũng mãnh nơi chiến trận, liệu về nhà cũng như vậy sao? Trung Nguyên là quê hương, là cha mẹ, là nơi ta luôn mong đợi, vào đến đây như con trẻ về nhà. Chỉ có người Phồn hận ta thấu xương, tuyệt không muốn buổi đàm phán suôn sẻ, thậm chí tìm trăm phương nghìn kế hòng ly gián người thân, may mắn các vị đại nhân sáng suốt, chắc chắn không bị che mắt.”

Đồng Thiệu đã nhận hối lộ từ người Phồn, muốn chèn ép người Hà Tây hết mức có thể, không ngờ Chu Nguyên Đình ra tay trước, hắn tức tối cố ý đến đây gây sự, muốn ép Hàn Nhung Thu lỡ lời để bắt lỗi, làm hỏng chuyện sáp nhập, không ngờ đối phương đối đáp khôn khéo, không chút sơ hở.

Chu Nguyên Đình lạnh lùng quan sát, đến lúc này nói, “Lương đại nhân hãy thu bản đồ và quân sách lại, tất cả đóng hòm niêm phong, những điều đã bàn ghi vào tấu chương, sai người cưỡi khoái mã nhanh chóng đưa về Trường An. Hàn đại nhân ở xa tới là khách, nếu đã bàn xong chính sự thì nên chuyển sang tiệc đãi khách.”

Không khí dịu xuống, các quan viên nói cười, di chuyển đến Tây Đường Các.

***

Trần Bán Phường xách cổ Lục Cửu lang về rồi lại bận tối mày tối mặt, đến nửa đêm mới về phủ, vừa mệt vừa nóng nảy hệt như một cây pháo sắp nổ.

Tú Hương ở trong Các học được cách hầu hạ chiều khách, lúc này cúi đầu ngoan ngoãn dùng khăn lau mặt, đưa canh nóng cho gã lót dạ, hết sức xoa bóp gân cốt, cởi giày ngâm chân.

Trần Bán Phường cảm thấy thân tâm thoải mái, dần dần khuây khỏa, “Coi như ngươi lanh lợi, còn biết báo tin.”

Tú Hương ngoan ngoãn đáp, “Nô tỳ không làm được việc gì khác, chỉ có thể lưu ý những việc vặt, may mà không để tiểu thư bị lừa lần nữa.”

Trần Bán Phường lại bùng lên lửa giận, rút chiếc trâm vàng từ trong tay áo ném xuống cạnh giường, “Tên nhãi đó mồm miệng lẻo mép, cho chút đồ là lừa được nó quay đầu, sao mà ngu muội thế!”

Tú Hương nhấc chân gã ra khỏi chậu nước nóng, tỉ mỉ dùng khăn lau khô.

Trần Bán Phường vẫn còn tức giận, bỗng nhìn chăm chăm vào mỹ tỳ đang hầu hạ, bóp cằm nàng ta, chất vấn, “Hắn thuyết phục đàn bà giỏi như thế, đến chủ cũ của ngươi cũng bị lừa, ngươi có thoát được không? Lần trước Kiều nó nói thấy các ngươi ôm ấp nhau, có phải từ lâu đã có quan hệ mập mờ?”

Tú Hương thấy gã hung ác thì sợ nhũn người, “Trước đó gia đã hỏi rồi mà, biết hắn ta là tên phóng đãng, nô tỳ nào dám dây dưa, gia thực sự không tin, nô tỳ chỉ còn cách đâm đầu chết thôi.”

Nàng ta làm bộ muốn đập đầu vào cột để tỏ lòng, Trần Bán Phường mới vơi bớt nghi ngờ, mắng, “Ta chỉ hỏi một câu, ngươi việc gì phải làm quá lên?”

Tú Hương lập tức ngừng khóc, quỳ xuống bóp chân cho gã.

Mỹ tỳ hầu hạ vô cùng ngoan ngoãn, Trần Bán Phường cuối cùng cũng hài lòng, nhặt trâm vàng lên cài vào tóc nàng ta, “Hôm nay lập công, trâm này thưởng cho ngươi, ngày mai ra tiệm chọn một mảnh vải, may một bộ y phục mới.”

Người này nóng nảy dễ giận, lật mặt vô tình, Tú Hương nhận thưởng mà nơm nớp sợ, song vẫn cố tỏ ra vui vẻ.

Trần Bán Phường vừa định nghỉ ngơi, không ngờ Đỗ Hòe lại phái người gọi gấp khiến gã ta tức điên ném vỡ mấy cái chén, cố kìm nén cơn giận mà ra ngoài.

Hoá ra là tiểu Thất nói đi ra ngoài tìm tỷ muội, không ngờ phố xá đông đúc, hộ vệ mất dấu, quản gia thấy nàng đến tối vẫn chưa về bèn đi báo với Đỗ Hòe đang dự tiệc ở Tây Đường Các.

Đỗ Hòe vừa mất một mỹ nhân, nay lại thêm một người nữa mất tích, hỏi sao không tức giận.

Trần Bán Phường giả bộ an ủi, trong bụng thầm mắng người này mê luyến cái đẹp, không hề nghi ngờ bản thân đã trúng kế của bọn lừa đảo.

Ai ngờ gã ta chưa dứt lời, Đỗ Hòe đột ngột hỏi, “Ta đã phái người hỏi Phùng phủ, quản gia nói các nàng được Trần phường chủ đưa tới, rốt cuộc ngươi mua từ đâu, chẳng lẽ là bọn bán người bắt các nàng về?”

Lần này ngay cả Trần Bán Phường cũng bị nghi ngờ, gã vội vàng cười cầu hòa, “Ngày đó Phùng phủ cần gấp, người là do hàng xóm giới thiệu, thảo dân cũng chưa hỏi kỹ, đại nhân nghi ngờ cũng hợp lý, thảo dân sẽ lập tức cho người điều tra kỹ.”

Đỗ Hòe đương lo lắng, sợ Trần Bán Phường làm không xong việc nên mới thuận miệng nhắc nhở vài câu, không ngờ kẻ ác bá bị xúc phạm, tự muốn truy tìm.

Trần Bán Phường vừa quay lưng liền cau mày, ra lệnh cho thuộc hạ, “Về đánh chết thằng chó kia cho ta, rồi đi tìm kẻ môi giới đã gây ra rắc rối này, đòi lại tiền công!”

_________

Ngày hôm đó, Tây Đường Các treo đèn kết hoa, đèn lồng sáng trưng, trang hoàng vô cùng long trọng, không chỉ dân thường mà ngay cả quan lại cấp thấp cũng không được vào. Chấp pháp vệ canh phòng nghiêm ngặt, phong tỏa bốn phía, đứng gác ở từng cửa ra vào từng đoạn hành lang, đảm bảo không một con ruồi nào có thể bay lọt.

Trên bàn tiệc không khí rôm rả. Người Hà Tây ai nấy đều giỏi uống rượu, chủ khách đối ẩm cười nói, cảnh tượng thật vui vẻ. Chỉ có Đồng Thiệu hằm hằm lạnh mặt, như thể bị Tiết Quý thường hay nghiêm nghị nhập vào, tất nhiên chẳng ai ngu ngốc dám đi sang kính rượu.

Mà Đồng Thiệu đã đến, nhất quyết không chịu yên lặng, qua ba tuần rượu, hắn mở lời, “Nghe đồn quân Hà Tây dũng mãnh vô song, không biết theo ý Hàn đại nhân thì cảm thấy thế nào so với Thiên Đức quân?”

Quả là một câu hỏi thâm độc, nếu nói Thiên Đức quân mạnh, chẳng khác nào mở mắt nói dối; song nếu bảo quân đội Hà Tây mạnh thì lại như tát thẳng vào mặt Thiên Đức quân. Toàn sảnh nín lặng, chờ xem Hàn Nhung Thu sẽ đáp ra sao.

Hàn Nhung Thu vừa uống một chén với Chu Nguyên Đình, nghe vậy mỉm cười, “Thấy Đồng đại nhân là biết Thiên Đức quân lợi hại bực nào.”

Mọi người không ngờ ông còn biết nói đùa, cùng cười ồ lên.

Đồng Thiệu sầm mặt, chờ tiếng cười lắng xuống mới tiếp tục xỏ xiên, nhưng Hàn Nhung Thu kịp thời mở lời, “Ta không nói đùa, Đồng đại nhân cảnh giác mọi lúc mọi nơi, huấn luyện binh lính như thế sao có thể không lợi hại? Hà Tây chiến sự liên miên, binh lính phải chống trả trong mệt mỏi, khó lòng kéo dài, nên rất mong được như Thiên Đức quân có triều đình bảo vệ, khiến kẻ thù kinh sợ mà lui.”

Những lời này vừa tránh được hiểm nguy lại vừa chân thành, khiến mọi người cảm động.

Đồng Thiệu vẫn chưa chịu buông tha, tiếp tục chất vấn, “Các hạ vòng vo làm gì, điều ta muốn hỏi là sức chiến đấu.”

Hàn Nhung Thu dễ dàng chuyển hướng câu chuyện, “Chi bằng hỏi giữa quân Sóc Phương và quân Hà Đông xem ai mạnh hơn, các vị đại nhân trong triều e cũng khó xử.”

Thiên Đức quân nằm dưới sự cai quản của Sóc Phương quân, mà từ lâu hai quân Sóc Phương và Hà Đông đấu đá nhau đã trở thành trò cười cho triều đình, giờ đến cả Hà Tây cũng biết, khiến cả sảnh cười vang.

Chu Nguyên Đình cũng mỉm cười, “Chớ nói trong triều, lão phu nghe hai cái tên này đi với nhau thôi là lại nhức đầu.”

Mọi người cười không ngớt, đồng loạt đứng dậy kính rượu Hàn Nhung Thu.

Đồng Thiệu lạnh lùng nói, “Chỉ uống rượu thì có gì vui, chi bằng hai quân chọn ra tinh binh, so tài một phen.”

Biết rõ hắn có ý xấu nhưng mọi người vẫn bị lôi cuốn vào cuộc vui, không khỏi đánh giá cấp dưới của Hàn Nhung Thu.

Chẳng ngờ lần này Hàn Nhung Thu đã thẳng thừng từ chối, “Như vậy không ổn, thứ lỗi không thể tuân mệnh.”

Đồng Thiệu được đà ngạo nghễ, “Chẳng lẽ Hàn đại nhân ngoài miệng khiêm nhường nhưng thực tế coi thường Thiên Đức quân, cho rằng không xứng so tài với Hà Tây?”

Hắn khiêu khích người Hà Tây còn được nhưng kéo cả Thiên Đức quân vào, khiến rất nhiều võ quan bực tức.

Hàn Nhung Thu nhẹ nhàng phất áo, ung dung đáp, “Phương tướng quân và Hoằng Hải tướng quân mỗi người thống lĩnh ba mươi nghìn quân, Triệu tướng quân dẫn đầu Huyền Thủy quân lên tới hai mươi nghìn, họ vừa là cánh tay đắc lực vừa là người thân của ta, cùng ngồi chung bàn tiệc với ta, nhận được sự kính trọng của dân chúng Hà Tây. Xin hỏi Đồng đại nhân chọn người thi tài dẫn đầu bao nhiêu quân, ngồi ở vị trí nào, lấy thân phận gì mà so sánh?”

Đồng Thiệu á khẩu, cứng ngắc đáp lại, “Quân đội lấy võ lực để so cao thấp, sao có thể bị hạ thấp chỉ vì chức vụ.”

Hàn Nhung Thu mỉm cười, “Binh đấu với binh, tướng đấu với tướng, có gì là hạ thấp?”

Đồng Thiệu bế tắc, nhưng vẫn không cam tâm, “Tiết Ngu hậu có tài cầm thương kỵ mã vượt trội, không ngại vì Thiên Đức quân tranh lấy vinh quang!”

Tiết Quý không hay tham dự yến tiệc, lần này có mặt vẫn lạnh lùng ít nói, mà xưa nay y và Đồng Thiệu nước sông không phạm nước giếng, lần này bị điểm tên chỉ lạnh lùng liếc nhìn, “Đồng đại nhân muốn phô trương quân ta, sao không tự mình ra mặt?”

Ai ai cũng biết Đồng Thiệu là kẻ vô dụng, nếu thực sự lên đấu chắc chắn sẽ thành trò cười, mọi người nín cười không nói.

Đồng Thiệu tất nhiên không dám tự lên, ra hiệu cho thuộc hạ.

Thân tín Lư Tốn lập tức hùa theo, lớn tiếng nói, “Đáng tiếc Đồng đại nhân là quan văn, nếu là quan võ chắc chắn sẽ không ngồi yên. Hàn đại nhân đã mở lời, quân ta lại không có ai đối đáp, lỡ truyền ra ngoài thì quả là nhục nhã.”

Tiếng cười nói trong sảnh im bặt, lời này đã khiến tất cả quan võ mất mặt.

Bỗng lúc này Ngụy Hoằng phá lên cười, “Dù Lư đại nhân muốn xem trò vui cũng không cần nói nghiêm trọng thế, ai không biết còn tưởng là Hà Tây đã hạ chiến thư.”

Chỉ một câu y đã lật tẩy, chúng quan cười to, tình thế dịu đi.

Đồng Thiệu không ngờ Ngụy Hoằng đứng ra phá đám, tức giận nói, “Ngụy Hoằng, chức vị của ngươi còn không đủ để ra sân, đến lượt ngươi nói lung tung hả?”

Khuôn mặt bóng dầu của Ngụy Hoằng cười giả lả, “Ti chức cũng muốn lắm chứ, chỉ cần thăng cho ti chức mấy bậc thì một trận đấu nhỏ có là gì, bảo ti chức đánh Hàn đại nhân cũng được, cùng lắm chờ Hàn tiểu tướng quân tìm đến, ti chức lại trốn sang phủ của Tiết đại nhân.”

Mọi người được dịp cười nghiêng ngả.

Càng cười Đồng Thiệu càng giận, hắn tức giận rời sảnh tiệc, muốn làm nhục người Hà Tây, chợt nảy ra ý tưởng, “Gọi tiểu tử dắt ngựa lần trước đến đây!”

Sách ôm một bụng nghi hoặc xen lẫn lo lắng, không biết có phải đã để lộ sơ hở không.

Không ngờ Đồng Thiệu lại gọi chàng đến, lớn tiếng chỉ vào sư tử đá ngoài sảnh tiệc, “Tiểu tử, nâng nó lên.”

Sư tử đá nặng nề vững chãi, người thường muốn di chuyển còn khó, huống hồ là nâng lên.

Sách thật sự không hiểu, cười nói, “Đại nhân, chuyện này có vẻ không ổn.”

Đồng Thiệu gào rú, “Bảo ngươi nâng thì nâng, dám giữ sức là cố tình chống lệnh, lập tức lôi xuống đánh roi!”

Nghe tiếng quát, mọi người trong sảnh tiệc bèn đi ra xem, Đồng Thiệu càng kiêu ngạo thúc giục.

Hàn Nhung Thu trông thấy, chân mày khẽ động, ba người Phương Cảnh, Triệu Anh, Hoằng Hải cũng lộ vẻ kỳ quái. Phùng công đánh mắt ra hiệu, bọn họ thức thời im lặng, đứng trên thềm quan sát.

Sách cũng thật hết cách, nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, nắm lấy bệ sư tử đá, hai tay nổi cơ bắp cuồn cuộn, thở bật ra tiếng, thật sự nâng được sư tử đá lên.

Quả là một sức mạnh đáng sợ, mọi người kinh ngạc, không khỏi xôn xao.

Sách đặt sư tử đá xuống, âm thanh nặng nề vang lên, chàng lau mồ hôi trên trán.

Đồng Thiệu ngạo nghễ thách thức Hàn Nhung Thu, “Một hộ viện mà đã có sức nâng đỉnh thế này, xin hỏi Hàn đại nhân, Hà Tây có dũng sĩ được như vậy không? Các vị tướng quân đi cùng có ai dám so tài?”

Dù là Hàn Nhung Thu dày dạn cũng không khỏi buồn cười, nhất thời không biết trả lời thế nào, dùng tay che miệng khẽ ho một tiếng.

Triệu Anh cố nén cười, “Không dám, thành Thiên Đức ngọa hổ tàng long, bọn ta theo không kịp.”

Bấy giờ Đồng Thiệu mới hả giận, đắc ý cũng không thưởng mà chỉ dặn Sách, “Xem như ngươi có chút hữu dụng, lui xuống đi, hai ngày sau đến phủ Phó sứ làm việc trong chuồng ngựa.”

Sách không dám ngẩng đầu, sợ bị lộ sơ hở, vâng dạ lui ra.

Người có sức mạnh như thế chỉ cần huấn luyện chút ít đã là một dũng tướng vô song, vậy lại bị bố trí làm người giữ ngựa. Các quan viên có người tiếc nuối, có người kinh ngạc, lén bàn tán rôm rả.

Chu Nguyên Đình nhìn theo bóng dáng chàng thanh niên rời đi, dài giọng nói, “Đã khiến Hàn đại nhân cười chê rồi.”

Dù câu này ẩn chứa hàm ý gì đi chăng nữa, Hàn Nhung Thu vẫn mỉm cười, “Chu đại nhân khách khí quá.”

***

Cuộc yến tiệc kéo dài tới tận sáng, mấy người Hàn Nhung Thu được đích thân Tiết Quý mang binh hộ tống đến phủ của Phùng công.

Cánh cửa lớn vừa khép lại, vào đến nội viện, bầu không khí liền đổi khác, trên mặt mọi người đều thoáng nét thư giãn. Phùng công nở nụ cười hiền hòa, nói, “Trong nhà đều là người mình, đến đây coi như thuận lợi rồi. Mọi người đi nghỉ đi, chiều nay chúng ta còn buổi tiệc tại phủ Phòng ngự sứ.”

Các vệ binh trong nội viện đều trẻ trung dũng mãnh, nhiệt tình hành lễ. Hàn Nhung Thu bước qua, ấm áp cười nói, “Ông đã vất vả nhiều cho cuộc đàm phán lần này, đích thân lo liệu mọi thứ, quả thực khổ cực.”

Tâm trạng Phùng công đang rất tốt, song ngoài miệng chỉ cười nhạt, “Lần này ở ngoài phải mượn danh tam ca, ta và huynh ấy có dung mạo tương tự, chỉ cần hóa trang nhẹ là có thể qua mắt người khác. Vậy mà vẫn có người nghi ngờ Bùi gia không tận tâm, sợ cha ruột gặp nguy hiểm nên vội vàng chạy đến bảo vệ.”

Hàn Nhung Thu nghe vậy liền lúng túng, những người khác thì không nhịn được cười. Phương Cảnh là thông gia của nhà họ Hàn, cười bảo, “Tấm lòng hiếu thảo của Hàn tiểu tướng quân thật đáng khen, chỉ là tình cờ lại được triệu tới yến tiệc, may mà Thiên Đức quân không sinh nghi.”

Phùng công khẽ gật đầu, “Còn một đứa hiếu thảo nữa, là con gái mà cũng chạy xa gớm.”

Tiểu Thất tiến lại gần, lễ phép hành lễ, “Thưa cha.”

Hàn Nhung Thu không khỏi trách mắng, “Bình Sách không ra gì đã đành, cả con cũng chạy lung tung theo nó, về nhà sẽ bị phạt chung.”

Giọng ông rất dịu dàng, không hề có vẻ tức giận, tiểu Thất nghe vậy yên tâm, hành lễ với mọi người. Triệu Anh lúc trước không tiện thể hiện, giờ cũng hành lễ hậu bối hỏi thăm Phùng công. Phùng công thản nhiên nhận lễ, “Triệu Xa quả có phúc, con trai đã có thể tự đảm đương được rồi, đâu như Bùi thị còn phải để lão già này bôn ba. Gần đây ông ấy thế nào?”

Triệu Anh cung kính đáp, “Gia phụ vẫn khỏe mạnh, lần trước còn nhắc đến chuyện thú vị hồi nhỏ với Bùi thúc, nhớ nhung lắm.”

Phùng công rạng rỡ, “Ông ấy là gia chủ, việc nhiều vô số, thế mà còn có thời gian nhớ lại chuyện xưa?”

Hàn Nhung Thu cười nói, “Không chỉ mỗi ông ấy nhớ đâu, chúng ta cũng khó mà gặp được nhau, bận rộn tới lui mà bỏ lỡ mấy dịp. Đợi khi xong xuôi công việc ở đây, ông phải đến Sa Châu tụ họp một lần đấy.”

Phùng công cười không đáp, sau đó nhận lễ hỏi thăm của Hoằng Hải, tán thưởng, “Ngươi tiếp quản quân Hậu Thổ rất tốt, thân thể của Quan Chân đại sư thế nào rồi?”

Hoằng Hải chắp tay đáp, thái độ khiêm tốn, “Sư phụ vẫn còn khỏe, thường nhắc đến Bùi đại nhân, khen rằng Bùi gia đa mưu túc trí.”

Phùng công cảm thán, thở dài một tiếng, “Đa mưu túc trí có ích gì, Huyền Thủy và Hậu Thổ quân đã do thế hệ sau tiếp nhận, bọn ta già cả rồi.”

Hàn Nhung Thu an ủi, “Hành Ngạn cũng đã lớn, đợi vài năm nữa trưởng thành, ông sẽ được đỡ đần.”

Phùng công môi khẽ nhếch, hiện ra hai đường nét lạnh lùng, “Trưởng thành? Hành Ngạn nó luôn ở Cao Xương, đến khi đón về mới biết là được nuông chiều quá mức, văn không thông võ không thành, sau này không chọc ta tức chết là may lắm rồi.”

Hàn Nhung Thu không khỏi dở khóc dở cười, “Đâu đến nỗi nghiêm trọng thế, dạy lại từ đầu là được. Ông dẫn cháu nó đến Sa Châu theo, để con cháu ta chơi cùng.”

Phùng công lắc đầu không nói thêm, trò chuyện vài câu rồi dẫn mọi người đi nghỉ. Tiểu Thất thấy mọi người đều kính trọng Phùng công, đuổi theo hỏi nhỏ cha mình, “Cha, Phùng công thực ra là ai trong Bùi gia vậy ạ?”

Hàn Nhung Thu bật cười, hiền lành trách, “Đến chuyện này mà cũng không biết? Ông ấy chính là gia chủ của Bùi thị ở Cam Châu, Bùi Hựu Tĩnh đại nhân.”

Tiểu Thất xác nhận suy đoán của mình, trong lòng sinh lo lắng, chưa vội tiết lộ chuyện định nói.

Chương trước
Chương sau